Thứ Năm, 27 tháng 5, 2010

Ai là người tri kỷ của nàng Kiều?

"Truyện Kiều" là cuốn sách thơ kinh điển của kho tàng văn chương nghệ thuật Việt Nam. Bất cứ người Việt Nam nào đều thuộc những câu thơ trong "Truyện Kiều", người ít thì vài ba câu, người nhiều thì vài trăm câu... Cũng hiếm có tác phẩm văn học nào mà các nhân vật của nó lại đi vào đời sống nhân dân đến thế. Những nhân vật như: Tú Bà, Hoạn Thư, Sở Khanh, Từ Hải,... đã trở thành thân quen trong đời sống thường nhật. Như vậy, từ một tác phẩm văn học mang dấu ấn cá nhân của đại thi hào Nguyễn Du, "Truyện Kiều" đã trở thành đại diện của một dân tộc, là sản phẩm văn hóa của cả cộng đồng, như lời nhà trí thức Phạm Quỳnh: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn". 

Cuộc đời trôi nổi, phiêu dạt, khổ đau của nàng Kiều thì ai cũng biết. Thế nhưng, mấy ai biết được trong đời nàng, ai là người tri kỷ, là người sẻ chia thực sự những đau đớn mất mát của nàng. Bài viết dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ điều đó. Bài của nhà thơ Mai Văn Hoan (Huế), đã đăng trên Tạp chí Ngày nay.
----------------------------------------------------------------
AI LÀ NGƯỜI TRI KỶ CỦA NÀNG KIỀU?

Ai là người tri kỷ của nàng Kiều là một câu hỏi hết sức thú vị. Từ trước đến nay đã có không ít người đề cập đến vấn đề này. Căn cứ vào chữ nghĩa trong Truyện Kiều và những mối quan hệ tình cảm của nàng Kiều, người thì nói đó là Kim Trọng, kẻ thì cho đó là Từ Hải. Người thì quả quyết: chỉ có Thúc Sinh mới thực sự là tri âm tri kỷ của Kiều...

Người Việt Nam xưa nay thường dùng cụm từ tri âm tri kỷ để chỉ những đôi bạn hoặc những cặp vợ chồng "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Đó là những đôi bạn, những cặp vợ chồng hiểu nhau, thương yêu nhau, luôn quan tâm đến nhau, tạo điều kiện và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Tri âm, tri kỷ đều những là từ Hán - Việt mang hàm nghĩa: người bạn tâm đắc, thấu hiểu tâm tư tình cảm của mình. Bá Nha - Chung Tử Kỳ, Lý Bạch - Đỗ Phủ, Nguyễn Khuyến - Dương Khuê, Xuân Diệu - Huy Cận... là những đôi bạn như thế. Được tin Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến than thở: Rượu ngon không có bạn hiền/ Không mua không phải không tiền không mua/ Câu thơ nghĩ đắn đo không viết/ Viết đưa ai, ai biết mà đưa... Tôi cho đó là những câu thơ thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc tình bạn tri âm tri kỷ.

Từ quan niệm về tình bạn, tình vợ chồng tri âm tri kỷ, đi sâu tìm hiểu ai là người tri kỷ của nàng Kiều. Người đầu tiên phải kể đến là chàng Kim. Mối tình Kiều - Kim là mối tình đẹp nhất, trong trắng nhất, nên thơ nhất, chung thuỷ nhất điều đó là lẽ hiển nhiên không cần phải bàn cãi. Nhưng Kim Trọng có thực sự là tri kỷ của Thuý Kiều hay không, thiết nghĩ cũng nên xem xét lại. Chàng Kim Phong tư, tài mạo tót vời/ Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Mới gặp chàng lần đầu nàng Kiều đã xao xuyến, rạo rực, mơ tưởng: Người đâu gặp gỡ làm chi... Kiều yêu chàng đến mức "khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan"...Nhưng trong quá trình tiếp xúc giữa hai người, theo tôi, có ít nhất ba lần Kim Trọng tỏ ra chưa thật hiểu nàng Kiều. Lần thứ nhất là lúc chàng nghe nàng đánh đàn: Khi tựa gối, khi cúi đầu/Khi vò chín khúc khi chau đôi mày. Kiều vừa đàn xong, Kim Trọng "góp ý" ngay: Rằng hay thì thật là hay/Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào/Lựa chi những khúc tiêu tao/Dột lòng mình lại nao nao lòng người.

Nếu thực sự hiểu nội tâm của Kiều, hiểu sự tiên cảm của Kiều, chắc chàng không nhận xét và khuyên bảo một cách nông cạn như thế. Lần thứ hai là khi "sóng tình dường đã xiêu xiêu", Kim Trọng đã có những cử chỉ, hành động "ra chiều lả lơi" với Kiều. May mà Kiều kịp thời ngăn chặn: Thưa rằng đừng lấy làm chơi/ Dẽ cho thưa hết một lời đã nao... Điều đó cũng chứng tỏ Kim Trọng chưa thật hiểu Kiều, chưa thật sự tôn trọng Kiều. Nàng phải buộc lòng dạy cho chàng bài học về "đạo tòng phu". Lần thứ ba là khi hai người gặp nhau sau mười lăm năm xa cách, để giữ thể diện cho chàng và không muốn mang tấm thân ô nhục của mình vấy bẩn đời chàng nên nàng quyết định "đem tình cầm sắt, đổi ra cầm cờ". Ấy thế mà trong cái đêm động phòng, Kim Trọng vẫn cố kèo nài nàng để làm "chuyện ấy". Một lần nữa buộc lòng Kiều phải tìm lời lẽ thuyết phục: Người yêu ta xấu với người/ Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau/ Cửa nhà dù tính về sau/ Thì còn em đó lọ cầu chị đây/ Chữ trinh còn một chút này/ Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan/ Còn nhiều ân ái chan chan/ Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi... Bấy giờ Kim Trọng mới ân hận và thú nhận là mình đã hiểu sai về nàng: Chừng xuân tơ liễu còn xanh/ Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân... Vì những lẽ trên, nên theo tôi, Kim Trọng chưa thật xứng đáng là người tri kỷ của Kiều.

Người thứ hai là Thúc Sinh. Mối tình Thúc Sinh - Thuý Kiều không đẹp, không trong trắng bằng mối tình Kim Trọng - Thuý Kiều. Nhưng bù lại Thúc Sinh có lẽ là người tình có nhiều điểm tương đồng với Kiều hơn cả. Thúc Sinh chính là người đã "phục sinh" cho Kiều. Hoàn cảnh đưa đẩy vào chốn lầu xanh, Kiều xem như mình đã chết: Mặc người mưa Sở, mây Tần/ Riêng mình nào biết có xuân là gìVui là vui gượng kẻo là/ Ai tri âm đó mặn mà với ai. Mặc dù khách làng chơi toàn cỡ Tống Ngọc, Tràng Khanh nhưng duy nhất chỉ có Thúc Sinh là chinh phục được Kiều: Sớm đào tối mận lân la / Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.../ Miệt mài trong cuộc truy hoan/ Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.

Làm xiêu lòng một cô gái còn ngây thơ trong trắng không khó, phục sinh một phụ nữ mà cõi lòng đã băng giá còn khó hơn nhiều. Nếu không thực sự tài năng và có tấm lòng chân thực không thể làm được. Về tài cầm kỳ thi họa thì chỉ có Thúc Sinh là sánh được với Kiều. Hai người vẫn thường chơi cờ, họa đàn với nhau (Kim Trọng chỉ có nghe chứ chưa bao giờ họa đàn với Kiều). Làm thơ hay như nàng Kiều (Ví đem vào tập đoạn trường/ Thì treo giải nhất chi nhường cho ai) thế mà phải bái phục Thúc Sinh. Nàng khen thơ chàng "lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu". Và kiếm cớ "lòng còn gởi áng mây Hàng" (nhớ cha mẹ) nên "họa vần, xin hãy chịu chàng hôm nay". Thế mới biết Kiều rất nể phục Thúc Sinh (Kim Trọng chỉ làm quan chứ không hề thấy làm thơ).

Nếu không thực sự thương yêu Kiều dại gì Thúc Sinh phải vung tiền cứu Kiều ra khỏi lầu xanh và quyết chí lấy nàng làm vợ. Những ngày tháng sống với chàng Thúc là những ngày tháng nàng Kiều hết sức hạnh phúc "hương càng đượm, lửa càng nồng". Vì thế nên khi chia tay Thúc Sinh, Kiều cảm thấy vô cùng cô đơn, trống trải: Người về chiếc bóng năm canh/ Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi/ Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường... Nếu Thúc Sinh nghe lời Kiều thú thực với Họan Thư, mọi chuyện chắc sẽ khác. Việc không làm theo lời dặn của Kiều, chứng tỏ Thúc Sinh cũng không thực sự hiểu Kiều, cộng với tâm lý khiếp sợ trước thế lực gia đình Hoạn Thư đã phá hỏng tất cả. Thúc Sinh bỏ mặc Kiều bơ vơ một mình trong cơn họan nạn: Liệu mà xa chạy, cao bay/ Ái ân ta có ngần này mà thôi! Như vậy, Thúc Sinh đâu có xứng đáng là người tri kỷ của Kiều.

Người thứ ba là Từ Hải. Không dềnh dàng "sớm mận, tối đào" như mối tình Thúc Sinh - Thuý Kiều. Từ Hải - Thuý Kiều vừa mới gặp nhau đã "hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa". Chỉ nghe Kiều nói một đôi câu khiêm nhường là Từ Hải đã "vừa ý gật đầu" và xem Kiều là người "tri kỷ" của mình ngay. Có người nói đây là mối tình "sét đánh". Thực ra, Từ Hải đến với Kiều chỉ vì sắc đẹp ‘nghiêng nước nghiêng thành" của nàng. Còn Kiều đến với Từ chủ yếu là tìm thấy ở Từ một chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống trôi nổi, bấp bênh của mình. Không như Thúc Sinh - Thuý Kiều, cặp Từ Hải - Thuý Kiều gần như là sự tương phản. Từ Hải "vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", còn Kiều thì "liễu yếu đào tơ"; Từ Hải "thanh gươm yên ngựa", còn Kiều thì "cầm kỳ thi họa"; Từ Hải bộc trực, nói năng có phần bỗ bã "mắt xanh chưa để ai vào, có không ?", còn Kiều thì nói năng nhẹ nhàng, bóng bẩy, chữ nghĩa "Tấn Dương được thấy mây rồng có phen"... Qua cuộc đối thọai giữa Kiều và Từ Hải trong lần Kiều thuyết phục Từ Hải ra hàng, ta thấy độ vênh rất lớn giữa hai người. Từ cho rằng: Bó thân về với triều đình/ Hàng thần lơ láo, phận mình ra sao/ Áo xiêm ràng buộc lấy nhau/ Vào luồn ra cúi công hầu mà chi/ Sao bằng riêng một biên thuỳ/ Sức này đã dễ làm gì được nhau... Trong khi đó, Kiều lại khuyên Từ nên về với triều đình: Sao bằng lộc trọng, quyền cao/Công danh ai dứt lối nào cho qua ? Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ thấy họ không phải là những người "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Việc Nguyễn Du không lần nào tả nàng Kiều đàn cho Từ Hải nghe chắc cũng có lý do của nó. Phải chăng vì Từ không phải là một Chung Tử Kỳ ? Từ Hải là ân nhân hơn là người tri kỷ của Kiều.

Vậy chẳng lẽ không có ai thật sự là người tri âm tri kỷ của Kiều ? Xin thưa: có đấy! Theo tôi, người đó không ai khác ngoài đại thi hào Nguyễn Du. Nhà thơ là người hiểu Kiều hơn ai hết, thương Kiều hơn ai hết. Chính Nguyễn Du là người cảm nhận hết vẻ đẹp hình thể tuyệt vời của nàng Kiều: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một toàn thiên nhiên. Chính Nguyễn Du hiểu và thể hiện một cách sinh động vẻ đẹp tâm hồn của Kiều. Đó là đức hy sinh, tâm hồn đa cảm, tình yêu thuỷ chung, tấm lòng vị tha của nàng. Nguyễn Du rất khâm phục tài làm thơ, tài đàn của Kiều. Và không ai thấu hiểu và cảm thông với những nỗi đau khổ mà Kiều phải chịu đựng như Nguyễn Du. Nhiều lần ông đã lên tiếng bênh vực cho nàng: Thịt da ai cũng là người/ Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau! Tố Hữu có một câu thơ rất nổi tiếng "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều". Nguyễn Du đã khóc thương nàng Kiều như khóc thương một người bạn tài hoa bạc mệnh. Phải đồng cảm với Kiều đến mức nào, nhà thơ mới viết được những câu xé ruột, xé lòng: Tuồng chi là giống hôi tanh/ Thân ngàn vàng để ô danh má hồng/ Thôi còn chi nữa mà mong/ Đời người thôi thế là xong một đời! hoặc Khi sao phong gấm rủ là/ Giờ sao tan tác như hoa giữa đường/ Mặt sao dày gió dạn sương/ Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân...

Bạn bè thì nhiều nhưng người thật sự tri âm tri kỷ rất hiếm. Gặp được người bạn tri âm tri kỷ là niềm hạnh phúc không có gì sánh được. Thật bất hạnh cho những ai trong đời không có bạn tri âm tri kỷ. Nàng Kiều đã may mắn gặp được Nguyễn Du như là sự bù đắp những nỗi khổ đau mà nàng từng chịu đựng. Và theo tôi, hai câu: Mấy lời tâm phúc ruột rà/ Tương tri dường ấy mới là tương tri, nàng Kiều nói với Nguyễn Du có lẽ phù hợp hơn là nói với chàng Kim.

Mai Văn Hoan

Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2010

Con cóc


Có chàng cóc tía bên ao
Lơ mơ ngủ gật, thì thào gió trăng
Nước mây lấp loáng sao giăng
Giật mình cóc tỉnh, nghiến răng gọi Trời

Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2010

Chuyện tình Hoàng Cầm


Thi nhân Hoàng Cầm. Tranh sơn dầu của họa sỹ Ba Tỉnh
Cái tin thi sĩ Hoàng Cầm qua đời không làm tôi ngạc nhiên, vì tôi đã được biết về bệnh tình của ông thông qua một vài người bạn. Có chăng là cảm giác hụt hẫng và trào dâng một nỗi buồn vì mất đi một Người Thơ, một Người mà tôi ngưỡng mộ từ lâu. Tôi đã thầm ngưỡng mộ ông qua bài thơ "Bên kia sông Đuống" mà tôi đã được học trong những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường. Sau này được biết nhiều hơn về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca, kịch thơ và văn xuôi của ông, tôi càng cảm phục hơn nữa. Tôi trộm nghĩ, sẽ còn rất lâu nữa, văn học nghệ thuật nước nhà mới có được một thế hệ những nhà văn, nhà thơ đầy tài năng và sáng tạo như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan,... Xin thắp một nén nhang tưởng nhớ tới Thi Nhân. Cầu mong hương hồn Ông siêu thoát nơi miền Thơ Cực Lạc.

Một người đa tài như Hoàng Cầm chắc hẳn phải đa tình. Đó là lẽ thường trong đời sống. Vì thế, kính mời các bạn đọc bài viết về những chuyện tình của thi nhân Hoàng Cầm của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.
----------------------------------------
1. HOÀNG CẦM VÀ PHỤ NỮ

Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922. Năm 18 tuổi ông lấy vợ là bà Hoàng Thị Hoàn quê ở Bắc Giang do gia đình cưới hỏi. Sinh được người con trai thì vợ ông mất trong kháng chiến chống Pháp. Hồi năm 1946 ông viết kịch thơ "Kiều Loan" và có một "tình yêu tự chọn" với nữ diễn viên Tuyết Khanh, sinh được một ái nữ đặt tên là Kiều Loan (1948). Do hoàn cảnh gia đình vợ ông phải theo chăm sóc mẹ đẻ, rồi vào Nam. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Hoàng Cầm trở về kết duyên cùng người đẹp Lê Hoàng Yến, sinh được hai người con trai. Năm 1985 bà Lê Hoàng Yến qua đời, Hoàng Cầm sống trong sự cô đơn đằng đẵng. Dù đông con cháu nhưng cảm giác cô đơn của một thi sĩ si tình không bao giờ được giải toả. Từ đó, theo cách nói của ông, Hoàng Cầm trở thành vị hôn phu vĩnh cửu.

Có nhiều mối tình đã để lại dấu ấn rất sâu đậm trong thơ ông. Bài thơ "Lá diêu bông" là một ví dụ đặc sắc về tình yêu huyễn tưởng tự tâm linh của ông hồi còn trẻ với cô gái tên Vinh hơn ông 8 tuổi. Sau này là nhiều bài thơ tình, khi thì viết tặng NA, khi thì viết tặng Đ.Đ.H, PD, hoặc PQ... Đọc tập thơ "99 bài tình" của Hoàng Cầm, ta thấy ông hiện lên với một tình yêu mê đắm, vừa chân thật vừa hư ảo, vừa yếu mềm vừa quyết liệt. Cũng xuất hiện trong tập thơ này nhiều giai điệu đẹp lung linh và dịu dàng như sương sớm. Tình yêu trong thơ ông vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Chính vì thế ông trở thành "thi sĩ của tình yêu" được đông đảo bạn đọc mến mộ.

Có thể nói tình yêu của Hoàng Cầm với giới đẹp nói chung và người đẹp nói riêng là có thật. Cũng không ít người đẹp đã yêu, mê ông qua thơ của ông. Có người còn yêu thương cả cảnh ngộ cô đơn của ông. Theo ông cho biết thì có người còn viết thư "tỏ tình" với ông, nhưng khi gặp lại thấy "duyên không hợp". Còn hầu hết những người ông cầu hôn thi không vượt qua được sự ngăn cản của gia đình hoặc dư luận, và rốt cuộc đều trở thành những người bạn, người em đáng quí của thi sĩ.

Khi đã vào tuổi bát thập, ông vẫn cảm thấy thèm một bàn tay của người bạn đời chăm sóc, từ lúc ốm đau đến khi trò chuyện. Ông nói: "Giá như khuy áo đứt có người đơm, màn thủng có người vá thì ấm cúng biết bao. Người xưa nói "Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông" thật là thấm thía". Chính vì vậy, mà thơ của ông vẫn trẻ mãi nỗi đam mê và khao khát tình yêu. Hai câu thơ trong bài thơ: "Phía sau thư cầu hôn" dưới đây, phần nào bày tỏ sự khao khát của ông:

Đánh liều trao thư cầu hôn em
Bật sáng đáy tâm hồn trẻ nít...

2. HỎI CHUYỆN CHỦ QUÁN "LÁ DIÊU BÔNG"

Nghe nói ở làng Hạnh Hoa có một cô chủ quán rượu xinh đẹp lấy tên bài thơ "Lá Diêu Bông" cuả Hoàng Cầm đặt tên quán của mình, tôi bèn mang máy ghi âm bỏ túi đến... uống rượu. Quán nhỏ, lớp tranh đơn sơ, nhưng lich sự. Các tửu khách trông có vẻ trang nhã, không giống như quán rượu ở quê. Cô chủ quán đẹp như tiên, đi lại nhẹ nhàng như mây gió. Nghe nói ngày xưa chị trọt yêu một chàng trai kém mình 8 tuổi, gia đình cấm đoán, nên quyết định không lấy chồng. Từ hồi "đổi mới" chị mở quán rượu sinh sống, và luôn mơ được gặp tác giả "Lá Diêu Bông".
Thấy tôi là khách lạ, chị ưu tiên tiếp rượu, và cuộc trò chuyện đã diễn ra như vầy:
- Chắc chị mê thơ lắm mới đặt tên quán bằng tên một bài thơ?
- Tôi mê tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng,. Nhưng khi đọc được bài thơ "Lá Diêu Bông" của Hoàng Cầm là tôi quên Vũ Trọng Phụng luôn. Từ đó tôi cũng hình dung Hoàng Cầm là cái cậu con trai cứ lẽo đẽo theo tôi đi tìm lá thuốc cho mẹ từ hồi mới lớn. Nhưng người phụ nữ trong bài thơ Hoàng Cầm thi đi lấy chồng, có con , còn tôi thì không.
- Chắc chị thuộc nhiều bài thơ Hoàng Cầm?
- Từ khi đọc bài thơ "Lá Diêu Bông", là tôi đi tìm đọc Hoàng Cầm. Nghe nói trong "đổi mới" thơ ông bị "lưu ban" một thời gian dài. May mà từ khi tôi thích thơ Hoàng Cầm, thơ ông lại được in ra liên tiếp.Tôi có đủ các tập "Về Kinh Bắc", "Men đá vàng", "99 bài tình", "Mưa Thuận Thành", "Bên kia sông Đuống" và cả cuốn kịch thơ "Kiều Loan" ông viết từ hồi bốn lăm (1945). Tôi đọc đến đâu là thuộc đến đấy, vì thơ ông rất Việt Nam, rất thích hợp với tư duy của tôi. Như là ông viết riêng cho tôi.
- Chắc chị từng học đại học văn?
- Mấy đứa cháu tôi nó mới học đại học văn. Nhưng chúng nó chẳng hiểu gì về thơ. Chúng nó thạo kinh tế hơn. Bây giờ đứa nào cũng nhà lầu xe hơi trên phố.
- Thế chị học gì?
- Tôi học thơ Hoàng Cầm. "Sông Đuống trôi đi- Một dòng lấp lánh - Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ". Đọc câu thơ này, nhiều đêm tôi nằm nghiêng và thấy mình cũng như đang trôi đi.
- Chị lãng mạn thật.
- Con người, ai mà chả lãng mạn. Nhưng lãng mạn bằng thơ thì nó đẹp gấp trăm nghìn ngoài đời. Thơ làm cho người ta sống đẹp hơn.
- Nhưng phải là thơ Hoàng Cầm?
- Tất nhiên là với tôi. Nhưng có một ông khách trên phố về đây uống rượu, ông ta cũng mê thơ Hoàng Cầm lắm. Ông ấy bảo chỉ có thơ Hoàng Cầm và thơ Hàn Mặc Tử là nhất. Suýt nữa tôi với ông ấy đã thành đôi...
- Sao lại không thành?
- Vì tôi chỉ thích thơ Hoàng Cầm.
- Rắc rối nhỉ?
- Này anh, nghe nói ông Hoàng Cầm lại sắp lấy vợ phải không?
- Năm nào tôi cũng nghe nói như vậy. Nhưng rốt cuộc thì mười mấy năm nay chả có đám cuới nào cả.
- Thế cũng tốt.
- Sao lại tốt?
- Mỗi lần thi sĩ yêu lại có thêm bài thơ hay cho đời.
- Chị không ghen với các giai nhân thật sao?
- Việc gì mà tôi phải ghen với họ.
- Ở Sài Gòn cũng có một cái quán "Lá Diêu Bông" như quán chị...
- Tôi biết. Những cái quán ấy ra đời sau quán tôi. đọc báo tôi biết mà. Hai "anh- chị" còn làm thơ tặng nhau nữa. Thi sĩ Hoàng Cầm phủ dụ chị ta bằng những câu thơ thật sang trọng: "Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi- Hỡi mưa Phương Nam bao giờ mưa đi?". Thế mà chị ta không chịu đi thì thật là "trời không có mắt".
- Nếu ông Hoàng Cầm mà làm thơ tặng chị, hay nói như chị là "phủ dụ" chị thì chị tính sao?
- Với tôi thật không có hạnh phúc nào bằng. Tôi phóng to bài thơ lên dán trên vách quán để khách rượu cùng thưởng thức.
- Nhỡ có người lại chê thì sao?
- Chê là quyền của người ta. Tôi cũng đọc một bài người ta phê bình thơ Hoàng Cầm là "thơ tình dục khiêu dâm". Và tôi thấy chính cái tay phê bình ấy mới thực sự có một cái đầu "dâm". Cứ theo cái đầu của anh ta thì Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Du khi viết về tình dục sẽ bị anh ta xử trảm.
- Có lẽ chị nói đúng.
- Tôi nói đúng là cái chắc. Ví dụ những câu thơ đẹp như thế này: "Ấm êm em trong trắng thịt da đêm- Ngọn gió nào cũng ấp một hơi thèm" mà anh ta lại phán là "thơ khiêu dâm" thì tôi không hiểu là anh ta đọc thơ theo cách nào.
- Thơ cần có tri âm. Cũng như Bá Nha gẩy đàn phải có Tử Kỳ nghe. Chị là Tử Kỳ của riêng Của Hoàng Cầm rồi đấy!

Có thêm khách đến. Tôi chia tay chị chủ quán "Lá Diêu Bông". Biết tôi quen Hoàng Cầm, chị mừng lắm, gửi tặng ông chai rượu Hạnh Hoa, và nhờ tôi mời thi sĩ ghé thăm quán. Hoàng Cầm cũng mừng lắm. Tôi và ông chuẩn bị "hành quân" thì ông bị đau phải vào bệnh viện. Vậy mà cái cậu con trai lẽo đẽo theo chị đi tìm lá Diêu Bông đã gần chin mươi xuân.

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Thứ Tư, 5 tháng 5, 2010

Hè đến


Hè đến phượng rơi rực đỏ đường
Ve kêu da diết nỗi tơ vương
Tóc dài hoa nắng cài ngực áo
Ai đứng chờ ai trước cổng trường?

Hè đến, thương sao bóng ngày xưa
Nhớ tiếng trống trường buổi sớm trưa
Lời giảng thầy cô còn đọng mãi
Bảng đen phấn trắng viết nên thơ

Hè đến cho đời những hạt mưa
Nhuộm tím bằng lăng những ước mơ
Mai sau dù đi xa vẫn nhớ
Ngày về, tim khẽ gọi: hè ơi!