Sergei Esenin và Isadora Duncan năm 1922 |
“ Không, nhà thơ không
xa lạ với cách mạng, chỉ có
điều cách mạng và anh không cùng bản chất. Exênhin là
con người nội tâm, dịu dàng, trữ tình – cách mạng
thì phơi bày, hùng tráng, đầy thảm họa. Và một thảm
họa đã đặt dấu chấm lên cuộc đời ngắn ngủi của
nhà thơ.”
(Lev Trotsky)
Bài viết quá hay và quá đúng của Lev Trotsky về Exênhin (Sergei Esenin)
đã khiến một người Việt rất yêu cả thơ ca và con
người Exênhin là tôi phải đắn đo khi muốn bày tỏ một
chút gì đó cảm nhận của riêng mình về nhà thơ Nga vĩ
đại này. Nhất là về những bài thơ cuối đời, được
viết trong hai năm 1924 và 1925 của Ông, mà nhiều bài thơ
trong số đó có thể coi là “ thơ tuyệt mệnh ”. Xécgây
Exênhin đã cảm thấy hơi thở của cái chết phả vào
Ông từ trước đó hai năm, trước khi Ông chủ động
“ không sập cánh cửa cuộc sống của
mình mà chỉ nhẹ
nhàng khép nó lại bằng bàn tay tuôn trào máu
đỏ ” (Trotsky). Những nhà thơ lớn của nước Nga thường
có số phận rất kỳ lạ. Hầu hết họ chết trẻ, chết
khi năng lượng sáng tạo tuôn trào mạnh mẽ nhất. “
Sống trẻ chết trẻ như những nhà thơ
Nga ” – trong bài
thơ Kỷ niệm về
những câu thơ Nga của tôi có một
câu thơ như vậy.
Đó là điều khiến tôi kinh ngạc và
thán phục nhất khi bước vào thế giới thơ ca của những
nhà thơ Nga. Không chỉ Exênhin, nhiều nhà thơ Nga khác
luôn cảm thấy sự dồn nén đến nghiệt ngã của số
phận khi họ chấp nhận thơ ca của mình như một sứ
mệnh và như một bi kịch. Thơ quả thật ghê gớm đối
với những nhà thơ Nga, dù thơ họ hết sức dịu dàng và
nhân hậu. Với Exênhin, số phận và thơ ca của Ông lại
càng đặc biệt. “ Cha của tôi – một
dân cày đích
thực / Còn tôi là con cái bác nông dân ”. Exênhin đã
“thật thà khai báo” lý lịch của mình như vậy. Và
toàn bộ thơ ca của Ông đã chứng thực cho “lời khai”
ấy. Đó là “ nhà thơ nông dân
” theo nghĩa đẹp nhất
của danh xưng này. Một nhà thơ nông dân Nga, sinh quán
vùng Ryazan, lại là một nhà thơ thế giới, một công dân
toàn cầu, một người mà thơ ca của Ông được người
Nga, và không chỉ người Nga, đọc nhiều chỉ sau Kinh
Thánh. Thơ Exênhin, quả vậy, đã là “ Kinh
Thánh của tâm
hồn Nga ”, nó dịu dàng, phóng khoáng, mộc mạc mà đầy
bí ẩn.
Với Exênhin, hai năm 1924 và 1925 là đặc biệt quan trọng.
Thơ Ông dường như tuôn trào mãnh liệt và đau đớn
trong hai năm cuối định mệnh ấy.
“ Chẳng
hiểu sao
tôi rưng rưng nước mắt
Và nhếch cười, hồn héo hắt, mông lung
Cứ như đây là lần thấy cuối cùng
Căn nhà gỗ, con chó nằm trên bục ”
Và nhếch cười, hồn héo hắt, mông lung
Cứ như đây là lần thấy cuối cùng
Căn nhà gỗ, con chó nằm trên bục ”
(24/9/1925)
Đoạn thơ này nằm trong bài thơ được ghi sáng tác ngày
24/09/1925, chỉ 3 tháng trước khi Exênhin tự mình “khép
cửa”, cánh cửa cuộc đời đầy giông bão của Ông.
Hình ảnh con chó, cây bạch dương, hoa tuyết, căn nhà gỗ
(izba), cỗ xe tam mã, quán
rượu, những con gà trống gáy
sớm, chim bạc má, dây trường xuân…những hình ảnh của
làng quê Nga thường lung linh và da diết trong thơ Exênhin,
như thể chúng được sinh ra là dành cho thơ Ông, và chính
Exênhin đã trao chúng linh hồn, khiến chúng trở nên bất
tử trong thơ Ông.
Tôi vẫn thường nghĩ, vì sao nước Nga
lại có Exênhin ? Những nhà thơ nông dân, xuất thân từ
nông dân và trở nên nổi tiếng, thế giới có không ít.
Nhưng không có nhàthơ-nôngdân nào có số phận kỳ lạ
như Exênhin, có những bài thơ về làng quê xuất thần
như thơ Exênhin, và thơ càng mộc mạc lại càng bí ẩn,
như thơ Exênhin. Nếu như văn hào M. Gorki mệnh danh Xécgây
Exênhin là “ Một thứ cơ quan mà
thiên nhiên sáng tạo ra
chỉ để làm thơ, để thể hiện nỗi buồn vô tận của
ruộng đồng ”, thì ta phải hiểu, tâm hồn nhà thơ ấy
và tâm hồn của ruộng đồng Nga là một, hoặc như một.
Tôi đã có dịp chiêm ngưỡng những cánh đồng Nga, những
cánh đồng đất đen trải ra vô tận và buồn vô tận.
Nỗi buồn ấy là tự nhiên, hồn hậu và lành sạch. Cho
tới bài thơ tuyệt mệnh cuối cùng, thơ Exênhin vẫn
trong trẻo làm sao, dịu dàng làm sao! Hệt như những cánh
đồng Nga.
“
Tuyết đã tan, bị nghiền thành bụi nhỏ
Từ trên cao trăng lạnh chiếu mơ màng
Tôi lại gặp rìa làng thân yêu cũ
Xuyên bão bùng, thấy ngọn lửa bên song
Lũ chúng ta bọn không nhà không cửa
Cần nhiều chăng ? Cũng dễ hiểu thôi mà
Tôi ca ngợi. Cơm gia đình gặp bữa
Thấy lại mẹ già sau năm tháng vời xa
Mẹ lặng lẽ nhìn tôi, rưng rưng nước mắt
Không một lời như chẳng chút chua cay
Người muốn nâng cốc nước trà trước mặt
Cốc nước trà đang tuột khỏi bàn tay
Mẹ già nua, dịu hiền và thương thiết
Người chẳng quen với ý nghĩ u buồn
Trong tiếng đàn phong cầm mùa giá tuyết
Mẹ nghe này con kể chuyện đời con
Con thấy nhiều, đi đó đây chẳng ít
Yêu bao lần, lắm đau khổ từng qua –
Từ đó hóa tên dở gàn, say tít
Chưa thấy ai tốt hơn mẹ kia mà
Một lần nữa bên bếp lò sưởi nóng
Con tháo giày, cởi áo rất ngây thơ
Và lại sống, lại thêm niềm hy vọng
Số phận tốt lành như lúc trẻ thường mơ
Ngoài cửa sổ bão thét gào, nức nở
Trong tiếng gầm man rợ, tuyết cuồng quay
Con ngỡ những cây bồ đề trắng xóa
Đứng trong vườn – lá bứt mạnh tung bay ”
(1925)
Từ trên cao trăng lạnh chiếu mơ màng
Tôi lại gặp rìa làng thân yêu cũ
Xuyên bão bùng, thấy ngọn lửa bên song
Lũ chúng ta bọn không nhà không cửa
Cần nhiều chăng ? Cũng dễ hiểu thôi mà
Tôi ca ngợi. Cơm gia đình gặp bữa
Thấy lại mẹ già sau năm tháng vời xa
Mẹ lặng lẽ nhìn tôi, rưng rưng nước mắt
Không một lời như chẳng chút chua cay
Người muốn nâng cốc nước trà trước mặt
Cốc nước trà đang tuột khỏi bàn tay
Mẹ già nua, dịu hiền và thương thiết
Người chẳng quen với ý nghĩ u buồn
Trong tiếng đàn phong cầm mùa giá tuyết
Mẹ nghe này con kể chuyện đời con
Con thấy nhiều, đi đó đây chẳng ít
Yêu bao lần, lắm đau khổ từng qua –
Từ đó hóa tên dở gàn, say tít
Chưa thấy ai tốt hơn mẹ kia mà
Một lần nữa bên bếp lò sưởi nóng
Con tháo giày, cởi áo rất ngây thơ
Và lại sống, lại thêm niềm hy vọng
Số phận tốt lành như lúc trẻ thường mơ
Ngoài cửa sổ bão thét gào, nức nở
Trong tiếng gầm man rợ, tuyết cuồng quay
Con ngỡ những cây bồ đề trắng xóa
Đứng trong vườn – lá bứt mạnh tung bay ”
(1925)
Bài thơ này chưa phải bài thơ cuối cùng của Ẽxênhin,
nhưng nó tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác cuối cùng của
Ông. Có thể thấy trái tim đẫm máu đang phơi trần của
nhà thơ khi đọc những dòng thơ đầy yêu thương xa xót
này. Và cũng có thể thấy truyền thống của thơ Puskin,
thơ Lermontov tuôn chảy trong thơ Exênhin như thế nào.
Không một nhà thơ nào, dù là thiên tài, lại từ trên
trời rơi xuống cả. Exênhin cũng vậy. Cả một truyền
thống vĩ đại của thơ ca Nga đứng sau lưng Ông, dù thơ
Ông là chỉ của Ông thôi. Sáng tác bằng bản năng, bằng
linh cảm, nhưng không phải vì thế Exênhin từ chối tiếp
thu di sản thơ ca, từ chối văn hóa đọc.
Là một nhà
thơ nông dân, nhưng số phận đã đưa Exênhin đi tới
nhiều nơi trên thế giới, tiếp xúc với nhiều nền văn
hóa khác nhau. Có thể, như Lev Trotsky đã viết :
“ Anh (Exênhin) hấp thụ Têhêran [Teheran] sâu sắc hơn
Niu Oóc nhiều, và cái trữ tình hoàn toàn nội tâm của
anh, có cội rễ từ Ryazan, đã tìm thấy ở Ba
Tư (Iran) nhiều mối tương
thích hơn là ở các trung tâm
văn hóa châu Âu và châu Mỹ ”. Cho dù như thế, ngay
cả khi viết những bài thơ rất hay về Ba Tư, về một
cô gái tên Sa-ga-ne với khăn choàng mặt, thì Exênhin vẫn
như đang viết về vùng quê Ryazan và cô gái quê Ryazan của
Ông với một tình yêu nồng nhiệt và ngây thơ. Càng đi
xa quê hương, thơ Exênhin càng thấm đẫm hương vị đồng
quê Nga. Có thể nghe mùi cỏ khô của những cánh đồng
Ryazan trong thơ Exênhin khi ông viết về những vùng đất
lạ :
“ Dù
Si-ra có xinh đẹp
tuyệt trần
Cũng chẳng hơn gì thung lũng Ryazan ”
Cũng chẳng hơn gì thung lũng Ryazan ”
Mãi mãi, Exênhin và thơ ca của Ông thuộc về những cánh đồng đất đen buồn tẻ của nước Nga mà ở đó đã mọc lên cây bạch-dương-thơ thiên tài mang tên Xécgây Exênhin.
Khi tôi viết những dòng này,
hiện lên trong tôi hình ảnh
lặng lẽ và khắc khổ của nhà giáo quá cố Việt
Thương (Nguyễn Văn Giai) – người dịch tập thơ Exênhin,
người đã đắm đuối với thơ Exênhin từ thuở còn là
sinh viên du học tại Đại học Lomonosov (Nga). Thầy Việt
Thương – một chuyên gia về văn học Nga – nguyên chủ
nhiệm khoa ngữ văn Đại học sư phạm Qui Nhơn – đã
dịch tập thơ Exênhin này từ mười mấy năm trước. Sau
khi thầy đột ngột qua đời đã 3 năm, chúng tôi mới
tìm lại được bản thảo tập thơ dịch này, và thắp
hương xin phép thầy để được xuất bản. Tôi nghĩ, từ
nơi rất xa nào đó, thầy Việt Thương sẽ vui lòng khi
thấy tập thơ gồm những bài thơ viết hai năm cuối đời
của Xécgây Exênhin qua bản dịch công phu và tâm huyết
của thầy được tới với bạn đọc Việt Nam. Điều đó
cũng cho thấy sức sống lâu bền và mãnh liệt của thơ
Exênhin – một thứ thơ ca tuyệt đối quí hiếm trong thời
hiện đại này.
Cách đây gần ba chục năm, tôi
có viết được một bài
thơ về Exênhin, nhan đề Gửi Xécgây Exênhin.
Năm
2004, nhân được mời tham dự Liên hoan thơ quốc tế
Rotterdam (Hà Lan) lần thứ 35, và nhân được Ban tổ chức
Liên hoan thơ ra một đầu đề thú vị : “ Nếu phải bị
đày ra một hoang đảo mà chỉ được mang theo một quyển
sách, bạn sẽ mang quyển sách gì ? Bạn có bài thơ nào
về quyển sách ấy không ? ”, tôi đã chọn câu trả lời
: “ Quyển sách ấy là một tập thơ
Xécgây Exênhin ”,
và chọn bài thơ Gửi
Xécgây Exênhin cho Ban tổ chức
dịch ra tiếng Hà Lan và tiếng Anh. Bài thơ khi diễn đọc
tại Nhà hát Lớn Rotterdam, với phụ đề tiếng Hà Lan và
tiếng Anh chiếu trên màn hình, đã gây được ấn tượng
tốt, được những khán giả yêu thơ Hà Lan hoan nghênh.
Đó là điều thật bất ngờ đối với tôi. Nó thêm một
lần chứng minh : Exênhin và thơ ca của Ông là thuộc về
thế giới, và được yêu mến ngay ở thời đương đại
này. Xin gửi tới bạn đọc bài thơ của tôi như một
đoạn kết cho bài viết đã dài này.
GỬI XÉCGÂY
EXÊNHIN
như hòn đá ném thẳng xuống biển
khơi
thơ anh gợi những vòng tròn thăm thẳm
Exênhin một nửa mùa thu nước Nga chìm đắm
theo con tàu người thủy thủ lang thang
thơ anh gợi những vòng tròn thăm thẳm
Exênhin một nửa mùa thu nước Nga chìm đắm
theo con tàu người thủy thủ lang thang
và hành khách trên con tàu ấy
cây bạch dương chú chó nhỏ vầng trăng
những cô gái rượu vodka hoa tuyết
đã đắm chìm mãi mãi cùng anh
dưới những trận mưa rào ngôn ngữ
sóng cuộn dâng đờ đẫn hung cuồng
nhà thơ nằm mơ màng tận đáy
kín bít hầm tàu rừng rực hoàng hôn
để bao kẻ ham bạc vàng đồ cổ
phí thời gian trục vớt lặn tìm
những chiếc lá họ nhầm ra vàng lá
còn nỗi buồn ánh lên như bạch kim
người nằm đó nhà thơ hay kẻ cướp (*)
Exênhin tôi yêu anh làm sao
dễ gì ném đời mình cho thơ phú
tự thắt dây vào cổ, dễ gì đâu
nhưng ta biết làm chi cho khỏe
nửa phần đời ta vút diều sáo ngang trời
nửa phần kia là đất đen lặng lẽ
nối vào nhau mỏng mảnh sợi-dây-người
nhưng ta biết làm chi cho khỏe
gió mát trăng thanh múa hát tít mù
đêm êm ái bàn tay ai nhè nhẹ
Chúa là em đôi vú mơ hồ
(1986)
(*) Câu thơ Esenin: “Nếu
không là nhà thơ / Tôi sẽ
làm kẻ cướp”
Quảng Ngãi sau
bão Haiyan,
11/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét