Chỉ còn ít giờ nữa là năm Canh Dần qua đi và năm Tân Mão sẽ đến với bao nhiêu hy vọng về một tương lai hạnh phúc và thịnh vượng. Tết là dịp để mọi người trong gia đình sum họp, bạn bè thân thiết gặp gỡ, hàn huyên với nhau, hàng xóm láng giềng thăm hỏi, là dịp để mọi người nghỉ ngơi sau một năm lao động vất vả. Tết là lúc tiết trời lành lạnh, những hạt mưa đầu xuân bay ngang đầu ngõ, là khi những cánh đào tơ phơ phất ửng hồng, là lúc ta thấy phấp phỏng một nỗi riêng tư,... Có lẽ vì chất chứa trong lòng quá nhiều những nét đặc trưng của văn hóa Việt, của làng quê Việt nên Tết bao giờ cũng là nỗi nhớ cồn cào, là kỷ niệm sắt se trong lòng những người xa quê hương. Mỗi khi nhịp thời gian báo hiệu gần kết thúc năm cũ, là khi đó cái "chất quê" trong mỗi người lại trỗi dậy. Nó khiến cho ta thêm thương nguồn nhớ cội, để biết rằng mình là ai, mình đang ở đâu trên trái đất này. Nó cũng là chất men để khiến cho tâm hồn mỗi người dân Việt thêm chan chứa hương vị cuộc đời.
Kính chúc bạn bè gần xa một năm mới dồi dào sức khỏe và an lành. Trân trọng giới thiệu một bài viết về cảm xúc Tết, cảm xúc về người mẹ Việt Nam, của nhà thơ Đỗ Trọng Khơi (Thái Bình).
---------------------------------
CẢM XÚC CHIỀU BA MƯƠI TẾT
Tết qua tôi về quê nhằm đúng chiều ba mươi, vào tới sân nhà thì hình ảnh đầu tiên tôi gặp là mẹ già đang ngồi lui cui chăm bếp lửa. Ánh lửa rực hồng in dáng mẹ. Mẹ thật gầy! Lòng tôi se sắt…
Mỗi khi chiều buông, trong
mùi hương gây nhớ của làn khói bếp, của hương thơm cảnh đoàn viên mà lỡ nhà nào
đó có người thân đi xa không về thì cái làn khói bếp kia, cái mùi hương gây nhớ
kia sẽ trở nên một day dứt, một ám ảnh vô cùng. Điều này càng trở nên bội phần
da diết hơn, ơi làn khói bếp những chiều ngày Tết.
Chiều chiều ra
đứng ngõ sau
nhìn về quê mẹ
ruột đau chín chiều…
Lời yêu thương ta
thán ấy sao lại cũng xuất hiện trong buổi chiều? Có sự can thiệp tác thành của
làn khói bếp mà các mẹ ta châm lên khoảng không gian dài nhớ rộng thương đó
không? Hẳn là có đấy. “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng
cho buồn lòng ai…” Câu Đường thi nạm chữ vào lòng dạ cố hương cũng có gốc
sinh ra từ làn khói. Người con gái phải xa quê đi lấy chồng, người con trai thì
phải xa quê đi mưu cầu công danh sự nghiệp, xưa cũng như nay ai chẳng canh cánh
bên lòng nỗi nhớ nhung quê mẹ. Trên đường chiều khi mắt đã bắt vào làn khói
trắng rất mỏng giăng lên trên mái nhà quê thì chân dồn chân ai cũng mong bước
chạm ngõ nhà trước khi chiều tắt ánh. Người ở nhà giữ lửa châm khói mong móng
từng tiếng bước chân quen trên mặt ngõ để cùng nhau hưởng bữa cơm ngon. Và còn
khắc khoải mong móng bằng năm bằng mười nếu như sự xa cách người thân trong
ngày non sông tao loạn. Tuổi ấu thơ đời tôi cùng gia đình mình thấm thía niềm
nhớ thương người bố nơi chiến trận. Ngày ấy, khi chiều buông dời tay liềm tay
hái từ đồng về là bà nội tôi lại âm thầm giấu lòng vào với những sàng sẩy nong
nia thóc gạo. Mẹ tôi thì ẩn nhẫn nén lòng nhen lửa bếp giữ nhịp sống cho gia
đình cùng những đứa con thơ.
Bây giờ khi viết
những dòng ký ức này tôi đã sống xa làng. Do hoàn cảnh riêng tôi ít được thăm
quê thăm mẹ nên mỗi khi chiều buông, lòng tôi hay buồn nhớ. Như buổi chiều vừa
trôi qua này tôi đang sống trong nỗi lòng nhung nhớ ấy. Nỗi lòng in trên sắc
mặt. Anh bạn bác sỹ, người đang hàng ngày điều trị bệnh cho tôi thấy vậy hỏi
chú có gì nghĩ ngợi đấy? Tôi gượng cười thưa, em nhớ nhà. Thèm nhìn thấy cái làn
khói bếp mỏng manh, cái mùi âm ấm nồng nồng và ngàn ngạt. Cái tình với đất đai
thôn ổ, với rạ rơm củi lửa đã ăn sâu vào tuổi đời em rồi… Nghe vậy vẻ mặt anh
bác sỹ chợt cũng bần thần. Anh cũng là người mang gốc gác nhà quê mà. Anh bác
sỹ bảo, lâu lắm rồi mình chỉ quen với bếp ga bếp điện. Chiều xuống cũng thấy
lòng trống vắng. Trống vắng cái gì thì chưa gọi thành tên. Lẽ nào lại từ cái
làn khói bếp châm lên từ rạ rơm củi lửa ấy? Tôi bảo, có lẽ lắm, anh ạ. Cái làn
khói bếp ấy là một nơi cho ký ức lớp tuổi anh em mình và của người quê kiểng
ngàn xưa điểm cư trú đấy. Nó thật mỏng mảnh và cũng thật chắc bền. Bởi nó được
xe bện, giăng mắc từ cảnh thanh bình, hạnh phúc. Anh bác sỹ thì thầm đọc câu
thơ của một nhà thơ chiến sỹ, viết thời chống Mỹ: “Khi con thưa với mẹ/
mưa bay mờ đồng ta/ ngày mai con đi/ khói bếp mẹ con mình chợt ngừng trên mái
rạ…” Rồi anh hỏi tôi, là nhà thơ, chú có viết về làn khói bếp không? Tôi
thưa rằng có. Viết những vài ba bài cơ. Song cái khoảng “ngưng” tạo quãng lặng
thời gian của câu thơ trên thì thơ giờ không tạo ra được. Bởi từ cái làn “khói
bếp mẹ con mình” đã gợi ra thứ khói tàn khốc ám vào, đè trĩu lên cái làn khói
bếp gia đình, là khói lửa đạn bom. Còn làn khói bếp trong thơ em mang sắc bình
yên, bình dị vĩnh hằng nếp sống nơi thôn dã.
Chiều chiều mẹ
trồng ngọn khói
thu trời bé lại
phương con
trong mùi cơm
thơm phưng phức
cõi trần thắm một
màu son…
Và,
Trong mong manh
làn khói bếp
thời gian lẫm
chẫm đi về…
Nghe, anh bác sỹ tỏ ý
ưng số chữ tạo hình của khúc thơ ấy và anh hỏi tôi viết bài thơ này khi nhà mới
dinh lên thành phố, khi đã sắm bếp ga? Tôi lại thưa, em viết bài “Chiều chiều”
khi chưa có nhà riêng ở thành phố, còn đi ở trọ. Một chiều nhìn lên mái nhà
tịnh không thấy tí tẹo làn khói bếp nào. Mà thành phố Thái Bình còn có nơi
phường, xã cảnh sắc đậm vẻ thôn làng. Vậy những làn khói châm lên từ củi lửa đi
đâu? Lại giật mình nghĩ ngợi, rơm rạ nhà quê bây giờ phần nhiều dùng để đốt
ngoài đồng rồi. Bếp ga, bếp than kiểu mới đốt không có khói cũng đã dần trở lên
phổ biến rồi. Trong buổi chiều đông ấy một cảm giác thật thương thật tiếc dâng
lên tràn ngập.
Trước ngõ nhà mới của
tôi có một con sông mang cái tên rất Tây – sông Pari. Tên gọi thì xa lạ nhưng
cảnh sắc ven sông, màu nước và phương thức lao động của ngư dân thì vẫn cũ. Lác
đác những con thuyền nhỏ xíu và rách nát chăng lưới bắt cá dập dềnh trôi nhẹ.
Tôi rất có cảm tình với cách chèo thuyền bằng hai chân của một anh ngư phủ. Tôi
thường ra bờ sông lúc chiều buông ngắm cảnh phố phường vào đêm và chờ thuyền
anh ta về buông lưới. Và một lần mải dõi theo bóng thuyền đang khuất dần về
cuối dòng thì tôi gặp nơi cuối sông một mảnh trăng liềm sáng trắng. Ngẩng đầu nhìn
về phía trời đằng Đông mới hay mảnh trăng chiều đã nhô tới đỉnh cây cột điện
bên kia sông. Cây cột điện có ngọn cao áp ánh vàng lúc ấy còn ngủ im lìm chưa
thức ánh. Cúi đầu nhớ cố hương… Một tiếng gõ mơ hồ trong đáy lòng ý
chừng muốn nhắc nhớ rằng, liệu hồn, anh sắp thành kẻ vong thân vong bản, kẻ mất
quê đến nơi rồi. Trăng mang bóng quê nhà vào cuối sóng… Không kìm được
tôi chợt thốt lên câu nói thơ ấy. Cuối trời chiều đó sao mà khói lam nhiều đến
thế. Những cồn khói cứ giăng thành giăng lũy trước con mắt tha hương. Khói
trắng dâng hồn quê kiểng ngang trời... Lời tôi hay lời ai xưa vọng lại…
Sự đổi mới tiện nghi
sinh hoạt theo bước phát triển khoa học kỹ thuật đương nhiên là một tin mừng,
là cần thiết. Nhưng để có những bếp ga bếp điện mà người nhà quê xứ ta đánh mất
đi hương ấm nồng nàn củi lửa trong bếp nhà mình thì cầm bằng khứa một vết
thương chơi vơi trong tâm hồn đó.
Ôi cái làn khói bếp như biết vấn biết bện tình người vào với đất đai thôn ổ!
Ôi cái làn khói bếp
mang mùi hương rơm rạ đã hằng đời tồn tại như một nét hồn quê, như một thông
điệp gửi tới bốn phương, tới trời cao xanh rằng: Đây là làng quê Việt Nam. Đây
một hệ thời gian riêng biệt mang tín hiệu về sự đầm ấm, an bình, hạnh phúc của
những gia đình Việt Nam khi sớm lúc chiều!
Ôi cái làn khói bếp
mang màu sắc, nhìn gần thấy trắng, trông xa thấy xanh mờ. Ấy là màu quê mẹ ta
thắp cho trời làm một mốc giới, cho đàn con Việt vẫn biết rằng: Chốn quê này có
mẹ !
Đỗ Trọng Khơi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét