Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2008

Trái Cấm bao giờ cũng là Trái Ngon

Truyền thuyết Thiên Chúa giáo chép rằng: Adam và Eva là hai người được Thượng Đế tạo ra đầu tiên trên thế gian này. Do nghe lời của con rắn, Eva đã ăn Trái Cấm nơi vườn địa đàng (vườn Eđen), sau đó cũng đã đưa cho Adam ăn theo. Khi vừa nếm được hương vị đầu tiên của Trái Cấm thì Thượng Đế phát hiện ra, Người rất giận dữ và hét lên : “Hai con là người mà ta tin yêu nhất, vậy mà cũng làm ta thất vọng”. Cùng với tiếng hét đó, Thượng Đế vung tay đập mạnh con rắn kia, làm cho xương trên người nó vỡ vụn ra, nên tới nay, loài rắn phải đi uốn éo trên đường chứ không thể đi thẳng như trước kia. Thượng Đế cũng bắt Adam và Eva phải xuống hạ giới sống, chịu sinh-lão-bệnh-tử, vui buồn, khổ đau như bao người khác. Khi bị đày xuống hạ giới, Adam và Eva hẹn sẽ đi tìm một nửa Trái Cấm của mình, rồi cho chúng ghép lại với nhau. Nếu không thì chúng buồn lắm, vì không thể nào sống xa nhau, thiếu nhau được. Vì vậy, hai người luôn đi tìm hạnh phúc cho mình, rồi dùng hai nửa hạnh phúc đó để ghép lại thành đôi. Hai nửa của Trái Cấm cũng quyết định sẽ lăn đi tìm nhau, dù cho phải chịu bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy đi chăng nữa.
Như vậy đó, con người vốn tự hào là những động vật thông minh bậc nhất, vậy mà cũng mắc phải lỗi lầm ngớ ngẩn, khù khờ, để suốt đời luôn phải đi tìm, phải sửa sai cho những lỗi lầm của mình.
Khi cầm trên tay tập thơ Trái Cấm của Nguyễn Phan Quế Mai, bất chợt tôi lại nhớ tới câu chuyện kia, rồi cứ ám ảnh bởi những bài thơ, bởi giọng thơ của một tâm hồn nhạy cảm, dung dị nhưng cũng đầy chân thành của chị. Ngay ở những câu thơ đầu tiên tôi đã bắt gặp điều này:
Trí khôn bảo em “Thôi đừng yêu anh”
Vậy mà con tim vẫn cứ dùng dằng

Thế đấy, trí khôn-lý trí của em đã nhắc em là không yêu anh nữa, vậy mà con tim-bản năng lại vẫn cứ dùng dằng, phân vân trước tấm chân tình của anh. Em cũng biết đến hiện thực đang hiện ra trước mắt, nhưng trái cấm tình yêu đã mời gọi trên cành, rồi chua ngọt, rồi nồng nàn, toàn những điều gây tò mò, gây đê mê, gây khoái cảm cả. Nói như Pascal, con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến, vậy thì, làm sao em cưỡng lại được, dù em hiểu rằng:

Con đường trần gian bàn chân rong ruổi
Cắn vào tình yêu
muôn đời
mắc tội….

Tình yêu muôn thuở là sự mỏng manh, sự hữu hạn. Có ai lý giải được tình yêu là gì, và cũng có ai dự kiến được tình yêu đến khi nào, đi khi nào. Do vậy, tâm trạng khi yêu là một tâm trạng hiến dâng, khao khát và có thêm một chút lo âu, phấp phỏng, có khi chỉ là những ý nghĩ vu vơ, mơ hồ chợt đến vì sợ tình yêu tan vỡ. Đối với phụ nữ, vốn yếu đuối, tâm trạng này lại càng hiện rõ:
- Những nỗi buồn sẽ nghiêng về một phía
Em biết rằng, đó là phía không anh
...
Em sẽ nghĩ gì ở phía không anh?
Sẽ làm gì với những bài thơ không xanh, hồng, tím, đỏ?
- Nụ hôn nào ở rất xa
Mà em sẽ ngỡ như là trên môi?
Sợ gì nước chảy mây trôi?
Sợ anh
níu
cả
biển
trời
phương
em
Từ nỗi sợ hãi rất bản năng đó, họ khao khát một sự bình yên, một bến bờ hạnh phúc, bến bờ mà chỉ có Anh mới mang lại cho Em:
- Trăng chọn dòng sông làm bến đợi
Em chọn anh làm bến đỗ đời mình
Em đã qua bao mùa trăng khát
Để cháy bừng một vầng sáng cho anh!
- Với tay hái ánh trăng mềm
Luồn vào gối ấm ru êm mộng người!
Hạnh phúc đối với họ cũng đâu ghê gớm, to tát gì, mà chỉ là những niềm vui thường nhật, giản đơn. Đó là những niềm vui, những ước ao như thế này:
- Mình cầm tay nhau nghe câu vọng cổ du dương
Lòng thấy mới với bao điều hẹn ước
Rơm rạ đơn sơ mỉm cười hạnh phúc
Về quê nha anh, về quê nha anh!
- À ơi... gió mát trăng thanh
Ru con mơ giấc mơ xanh tuổi đời
- Ước gì bẻ được câu thơ
Giấu nụ cười vào trong đó
Ước gì được là ngọn gió
Bay về xuân của ngày xưa

Trong tình yêu, ai cũng muốn cháy hết mình, muốn xả thân hết mình theo đúng nghĩa của tình yêu. Với phụ nữ, tình yêu của họ rạo rực, say đắm nhưng họ thường kín đáo hơn đàn ông. Họ có thể cho hết mình không tính toán, dù rằng họ phải chịu bao đau khổ, thiệt thòi hơn phái mày râu:
Người con gái cũng yêu như thế đó
Cũng cháy hết mình cho một tình yêu

rồi cũng rơi trong gió một buổi chiều
Để sáng mai, sẽ chẳng còn hoa đỏ
Đọc Trái Cấm, tôi có cảm giác vì tình yêu mà sự chờ đợi, sự hy sinh, sự ghen tuông của người phụ nữ trở nên trong sáng, đáng yêu và đáng trân trọng hơn. Họ có thể:

- Ở phía không anh...trái tim em vẫn thức
đập từng tích tắc
khắc khoải
đợi hoàng hôn....
- Vẫn biết rằng anh không thuộc về em
Sao ký ức vẫn đan xen vào ngày vào tháng?
Khắc khoải đợi từ khi bình minh rạng...
- Trái tim em vào mùa
Khát khô trong nắng hạn
Ký ức anh mát lành
Đem mưa về làm bạn
Có lẽ vì thế mà tình yêu của người phụ nữ thường thánh thiện, thường vĩ đại hơn người đàn ông?
Nhà văn nổi tiếng Victor Hugo đã từng nói: Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa. Chết vì yêu là sống trong tình yêu. Tình yêu khiến ta phải chờ đợi, phải si mê, hiến dâng tất cả thì tình yêu cũng sẽ cho ta tất cả: sự chân thành, bao dung, độ lượng, và trên hết, đó là sự sẻ chia, cảm thông giữa con người với con người. Tình yêu ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu nam nữ, mà cũng là tình yêu thương quê hương, xứ sở, tình yêu thương giữa những người thân ruột thịt, những cảnh đời bất hạnh xung quanh ta.
Quế Mai là như vậy, thơ chị là như vậy, không cầu kỳ, không là những triết lý sáo rỗng, không là cách viết làm dáng, ngoa ngôn. Thơ chị tự nhiên, giản dị, gần gũi nên dễ đi vào lòng người. Chị đã có lý khi đặt tên tập thơ là Trái Cấm, và cũng không phải ngẫu nhiên khi chọn bức ảnh cùng tên của nghệ sỹ nhiếp ảnh Thái Phiên làm trang bìa, vì rằng Trái Cấm bao giờ cũng là Trái Ngon. Và tôi cũng để ý đến một điều này nữa, phần lớn những bài thơ về tình yêu trong tập thơ này được Quế Mai viết trong khoảng thời gian gần đây (2007, 2008). Phải chăng chị đang yêu?

Tương lai đang ở phía trước, chúc chị đạt được mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống. Chị hãy là ngọn lửa cháy hết mình vì những ước mơ và hoài bão của mình. Tôi tin là chị sẽ làm được, vì chị biết chắp cánh những ước mơ cao đẹp của mình với cõi đời này.

Hà Nội, một ngày thu tháng mười 2008

Người yêu thơ họ Trịnh

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2008

Thơ trên blog đang làm xao động người đọc


1. NET MÙA THU là tập thơ có ‎‎ý tưởng lạ: kết hợp bài thơ đăng trên mạng và các comment. Điều này có thể thu hút bạn đọc. Song ngoài điều đó, có phải điểm chính là những bài thơ lạ, mới và hay?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Trước hết tôi khẳng định đây là tập thơ NET đầu tiên xuất bản tại Việt Nam được chọn trên cơ sở "bầu chọn trực tiếp" của bạn đọc bằng comment (cảm nhận, góp ý) của người đọc văn học mạng (Internet) và quan điểm của Ban Tuyển Chọn (Nguyễn Trọng Tạo - Hà Linh - Phan Chí Thắng). Có bài thơ hiện hàng trăm cảm nhận của bạn đọc và cũng có bài thơ không nhiều comment. Tuy vậy, hầu hết những bài thơ được chọn trong NET MÙA THU đã gây được sự chú ý của "dư luận" bạn đọc văn học mạng. Một tập thơ phong phú về đề tài, đa dạng về phong cách và đặc biệt có nét táo bạo về cách tân cả nội dung và hình thức, thậm chí có bài mà báo giấy "sợ" không dám đăng.

2. Khi tham gia tuyển chọn, điều gì làm cho anh thấy hứng thú ở tập thơ này? Anh đánh giá Net Mùa Thu ở mức độ nào: một tập thơ kỷ niệm hay một tập thơ đáng đọc...?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Có lẽ hứng thú nhất là hình thức in bài thơ kèm những comment. Tôi nghĩ tới bạn đọc rộng rãi khi đọc xong bài thơ rồi đọc "ý kiến nóng" của người khác về bài thơ đó, họ sẽ có sự so sánh với cảm nhận của chính họ, và điều thú vị sẽ xảy ra là người đọc sẽ "động não" và có "ý thức phê bình" hơn khi đọc thơ. Điều đó làm cho thơ gần gũi và đi sâu vào bạn đọc hơn. Vì vậy, nó vượt qua quan niệm in thơ hiếu hỷ, và tất nhiên tôi tin nó có sức hấp dẫn bạn đọc.


3. "Nhà nhà làm thơ, người người làm thơ"- gần như ai cũng biết. Thế nhưng chúng ta thấy Nhà thơ thực sự có câu thơ in vào trí nhớ bạn đọc lại không phải nhiều. Và các tập thơ hàng ngày, hàng tháng xuất hiện nhưng số lượng chỉ 500-1000 cuốn. Lâu rồi chưa có 1 tập thơ, bài thơ ấn tượng truyền tai nhau, chưa có một nhà thơ trẻ nào được tôn vinh như thời các anh. Cái này theo anh do bối cảnh văn chương hay do chính tác giả, tác phẩm?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Tôi từng tin "thơ ta vẫn hay", và hiện nay tôi vẫn tin như thế. Nhưng kinh tế thị trường xáo động đã chi phối xã hội thưởng thức thơ. Nếu nhà thơ trước những năm 1990 được sủng ái hâm mộ vào bậc nhất trong công chúng yêu thơ, thì bây giờ được thay thế bằng minh tinh màn bạc, bóng đá hay hoa hậu. Tôi đọc thơ trên mạng, đặc biệt trên các blog thỉnh thoảng ngạc nhiên về những giọng thơ lạ, những bài thơ lạ và hay mà không thấy xuất hiện trên báo giấy. Có những "tài thơ" như thế đấy, họ chỉ đi tìm tri âm trên mạng.

4. Tình trạng nhà thơ trẻ gần như được nhắc đến hay bị dư luận tranh cãi bởi các xu hướng mới, nhưng cũng mới chỉ được nhớ đến tên hoặc vài câu thơ. Một phần vì chỉ có một số người quan tâm, một phần chỉ được nhắc trên báo, thiếu những bài phê bình thực sự thấu đáo. Phê bình nhờ nhờ, thiếu trình độ hay thiếu bản lĩnh. Phải chăng có một l‎ý giải khác: chúng ta thiếu nhà phê bình như Hoài Thanh, Hoài Chân để có thể mang tới những chọn lựa và cái nhìn sắc sảo hơn với thơ?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Chỉ những nhà phê bình thực sự đam mê thơ mới có thể phê bình thơ hay. Lòng đam mê cho họ sự gần gũi, hiểu biết về thơ, và đặc biệt là chân thành với thơ. Nhiều comment trên các blog như những bài bình thơ thực sự, những bài "bình nóng" và trực tiếp thường bộc lộ rất rõ chính kiến, cảm xúc của "nhà-phê-bình-bạn-đọc". Nếu Hoài Thanh còn sống để đọc thơ trên blog, chắc ông cũng sẽ là "nhà phê bình nóng" mà nhà thơ nào cũng sẽ vinh dự khi được ông gõ comment vào bài thơ của họ. Về phê bình thơ hiện nay, tôi lo lắng nhưng chưa hề thất vọng.

5. Với anh, những bài thơ của anh được bạn đọc nhớ đến và thuộc có xuất hiện chậm so với thời gian sáng tác hay là ngay lập tức được đón nhận?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Khi bài thơ xuất hiện trên blog, sự phản hồi của bạn đọc rất nhanh: khen, chê, hoặc thờ ơ. Những bài nhiều comment cảm nhận, thậm chí thành bài bình luận ngắn, thường để lại ấn tượng cho người đọc. Thời hoàng kim của công chúng thơ trước đây, những bài thơ hay của tôi được người đọc nhớ rất nhanh. Chỉ loại thơ cách tân quá bạo liệt mới phải chờ thời gian "xếp hạng".

6. Thơ văn rõ ràng đang đi ngược: rất nhiều tác phẩm đăng trên mạng rồi mới quay trở lại in sách. Anh có cho rằng đây là xu hướng của văn học hiện đại? (Trung Quốc đã khá thành công với mô hình này)

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Nếu nhà văn công bố tác phẩm và giữ bản quyền trên mạng trước khi in báo, in sách thì không thể gọi là ngược. Nó như là giai đoạn thăm dò và điều chỉnh khiếm khuyết của tác phẩm cho đến hoàn hảo. Nhiều tác giả đã sửa lại tác phẩm qua ý kiến sâu sắc, thong minh, bất ngờ của bạn đọc mạng. Ngay trong một thời gian nằm trên mạng, có tác phẩm được sửa chữa nhiều lần khác nhau. Vấn đề công chúng mạng khuyến khích nhà văn rất nhiều trong sáng tạo. Cách biên tập và xuất bản chưa chuẩn của ta cũng góp phần thúc đẩy văn học mạng phát triển. Xu hướng hiện đại là xu hướng tự do cho văn học phát triển.

7. Tiểu thuyết, truyện ngắn để tạo nên những cuốn best seller trong bối cảnh hiện nay đang là điều vô cùng khó khăn. Nhưng khi thơ văn đẩy lên mạng ta cũng có thể thấy có một lượng độc giả khá và các bài thơ đã có sự phản hồi. Theo anh, thơ liệu có sự bứt phá nào đấy, hay chỉ là những tác phẩm in đẹp, kỷ niệm, còn giờ là thời của internet-các bài thơ cũng chỉ được đón nhận từ mạng?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Thời nay cuốn sách bestseller thường cộng hưởng với quảng cáo, tiếp thị. Tất nhiên nó cũng phải có "nội lực" nhất định. Có chiêu quảng cáo độc hơn là "thuê thu hồi sách rồi phạt vi phạm hành chính dăm triệu thôi". Ha ha, thế đấy, "của cấm là của quí", bạn đọc tha hồ tìm sách cấm qua chợ đen. Lợi nhuận trôi vào nhà sách, còn tác giả thì ngoài tiền bạc còn được công chúng phong danh hiệu "hiệp sĩ bị trù dập". Vấn đề thực chất của văn chương phát triển lại nằm ở chỗ khác, đó là văn tài và văn hay.

8. Thời gian vừa qua cũng có một số nhà thơ, khuynh hướng thơ được coi là lạ lẫm, bạo dạn và gây sock xuất hiện. Tuy họ chưa tạo được một khuynh hướng mới, một tên tuổi thơ đủ sức hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc nhưng họ đã dám thể nghiệm, dám sống với suy nghĩ của mình. Ông nghĩ thế nào về các cây viết trẻ và sự đón nhận của công chúng với thơ mới - thơ hậu hiện đại?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Không ai muốn làm thơ như cũ, phải làm mới. Nhưng rất nhiều, rất nhiều người kể cả người đã nổi tiếng vẫn lực bất tòng tâm. Ngay cả trẻ cũng vậy, nhưng trẻ bao giờ cũng có lợi thế của họ, lợi thế nhất là họ trẻ nên nhìn thế giới mới mẻ hơn. Thơ hiện đại hay thơ hậu hiện đại chủ yếu là thay đổi hình thức, cách nói. Nó cũng chẳng hơn lục bát hay xon-nê Đường luật... về hình thức. Nhưng nếu nó làm cho công chúng thích thì kho tàng thơ sẽ phong phú và mới mẻ hơn. Tôi tin rồi sự pgas cách và phá phách của lớp trẻ sẽ đến lúc trưởng thành hơn.

9. Con đường của các nhà thơ trẻ bây giờ gần giống nhau: ban đầu say mê, miệt mài với thơ, với rất nhiều tuyên ngôn và sự dấn thân. Song dần dần bị giảm nhiệt và làm thơ như một sự trang trí, còn hầu hết chuyển nghề báo, văn, hội họa, biên kịch... Con đường thơ văn vì thế mà cũng rời rạc? Đây có phải là cách làm không chuyên nghiệp và ngõ cụt của các nhà thơ?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Đó là đồ thị phổ biến của các nhà thơ trẻ, một đồ thị lên nhanh xuống nhanh rồi đi ngang. Có lẽ nó nhuốm phải căn bệnh "đi tắt đón đầu" "ăn xổi ở thì" mà cha ông đã chỉ ra. Đó không phải phẩm cách của nhà thơ. Cuộc sống khó khăn cũng xô đẩy họ và ta có thể ngậm ngùi thông cảm và chia tay họ. Nhưng với những tài năng văn chương thật sự thì ta vẫn có quyền hy vọng họ sẽ vẽ một đồ thị khác lạc quan hơn.

10. Nếu được chọn 5 gương mặt thơ trẻ, anh sẽ chọn ai? Liệu đủ đủ để chọn 5 hay đông hơn, có thể chọn được 10?

Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Thú thực tôi không thích làm giám khảo để lựa chọn nhà thơ. Đối với người trẻ, tôi thích cá tính và dấu hiệu bí ẩn của tài năng. Những tên tuổi thơ trẻ giao thời giữa hai thế kỷ tôi đã nói nhiều đến Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly... và họ đã dần tự khẳng định tên tuổi của mình. Giờ thấy xuất hiện Trang Thanh, Dương Anh Xuân, Trương Quế Chi, Nguyên Anh hay Nguyễn Thế Hoàng Linh... Hy vọng thì nhiều, nhưng quan trọng phải là sự tự bứt phá của chính họ. Nếu họ tung thơ lên blog riêng chắc sẽ hiểu rõ mình hơn qua bạn đọc, bởi thơ trên blog đang làm xao động và thu hút sự chú ý của công chúng thơ hiện nay.

9.2008

Hằng Nga thực hiện

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2008

Không đề

Niềm buồn cứ đến bất ngờ
Để ta chín đợi mười chờ nỗi vui
Về đâu trăm lối ngậm ngùi
Mưa xưa ướt áo sụt sùi lá rơi...

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2008

Có thể bạn chưa biết Nguyễn Trọng Tạo...


Nguyễn Trọng Tạo là một thương hiệu hấp dẫn suốt mấy chục năm nay. Đó là thương hiệu thơ với hàng chục tập thơ ấn tượng, có rất nhiều câu thơ tài hoa ai cũng nhớ: Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi... Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ/ Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió... Sông Hương hoá rượu ta đến uống / Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say... Bạn bè ở Huế thương nhau thiệt/ Một đứa vợ la chục đứa kinh...Tin thì tin không tin thì thôi... Thương hiệu nhạc với những bài hát nổi tiếng cả nước: Làng quan họ quê tôi. Khúc hát sông quê, Đôi mắt đò ngang... mà không ít nhạc sĩ thèm thuồng. Thương hiệu hoạ với hàng trăm cái bìa sách lạ lùng, hiện đại, trong đó có mấy cái được giải bìa sách đẹp. Đặc biệt Nguyễn Trọng Tạo là người đã vẽ lá CỜ THƠ, được công nhận và trở thành biểu trưng được kéo lên trong Ngày thơ Việt Nam từ nhiều năm nay. Thương hiệu "tửu" với những cuộc uống thâm đêm thâm ngày. Nhạc sĩ Ngọc Đại từng chứng kiến Tạo uống có cuộc 25 tiếng đồng hồ. Uống đến mức Gặp nhau là nhớ mùi rượu Hiếu/ Mưa nắng sá gì dốc Phú Cam... Đã có nhiều học giả, nhà văn nổi tiếng viết về Nguyễn Trọng Tạo như Hoàng Cầm, Vũ Cao, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Phủ Ngọc Tường,... Tôi chỉ xin lan man đôi chuyện đời thường đằng sau cái thương hiệu Nguyễn Trọng Tạo để bạn đọc hiểu thêm về con người tài hoa mà gần gũi này. Những câu chuyện đã kết thành hạt trong lòng tôi mà có thể bạn chưa biết...
-----------------------------------------------------------------------

Năm 1978, báo Nhân Dân tổ chức chọn thơ hay viết sau ngày giải phóng miền Nam. Kết quả có 16 bài thơ của 16 tác giả được tặng thưởng trong đó có bài thơ "Làng có một ngày như thế" của Nguyễn Trọng Tạo và bài " Nón bài thơ và hương đất cao nguyên" của tôi. Tôi quen biết Nguyễn Trọng tạo từ đó. Mùa đông năm 1985, Nguyễn Trọng Tạo vô Huế chơi. Anh ở trọ tại nhà tôi ở lưng chừng dốc Bến Ngự. Vợ tôi phát hiện ra cái áo ra-két anh lâu ngày không dặt, cứ bốc mùi "thơm" khắp nhà. Hình như suốt mùa rét chưa được giặt thì phải. Thế là vợ tôi bắt Tạo thay quần áo để ngâm giặt. Một bộ quần áo mà Minh Tâm giặt hết cả một bánh xà phòng loại 72% của Liên Xô rất cứng thuở đó, mà vắt vẫn ra nước đục. Khiếp thật. Những ngày đó tôi và Tạo đạp xe chở nhau đi uống rượu đàm đạo thi ca suốt ngày với bạn bè.

Những năm Tạo ở Huế, buổi sáng bao giờ cũng chén một tô cơm nguội đầy ụ có con cá nục kho gác ngang và một tô canh rau. Trông như ăn để đi cày. Tôi hỏi sao không ăn phở, bún, cháo, nghĩa là những thứ "nóng nóng nước nước" theo cách gọi của Phùng Quán. Tạo bảo ăn cơm cho chắc bụng để nhỡ phải uống cả ngày, đề phòng say. Tôi ngồi viết ở nhà, khoảng mười giờ sáng nghe tiếng xe máy Simsơn vè vè lên dốc, biết ngay Tạo chưa uống ở đâu. Thế là lục tủ lấy chai quốc lủi, rồi điện gọi Hoàng Phủ Ngọc Tường hay Mai Văn Hoan... Thế là cuộc nhậu kéo đến chiều, vợ tôi lại phải mua thêm rượu, tiếp thêm đồ mồi. Uống với Tạo tốn thời gian lắm. Ai muốn chuồn trước cũng rất khó. Nhưng Tạo ra Hà Nội rồi thì lại nhớ, lại thèm những cuộc say sang mùa...

Uống rượu thơ phú ngất ngưỡng cả ngày, nhưng Tạo là người chăm lo gia đình lắm. Vốn là người lính nên Nguyễn Trọng Tạo nấu ăn rất sành điệu (Chỉ có pha tiết canh lợn là phải điện thoại nhờ Ngô Minh). Tạo băm chặt, xào nấu, pha nước chấm, dọn mâm... như một người nội trợ thực thụ. Loáng một cái đã có mâm đồ mồi thịnh soạn bưng lên cho bạn bè nhậu. Ở một mình trên tầng 6 khu chung cư ở Hà Nội, có khách, Tạo cũng xách đồ từ chợ về nấu nướng. Vì chợ sát nhà nên các bà bán thực phẩm dưới phố ai cũng quen biết Tạo. Tôi ra Hà Nội, đến khu chung cư chưa cần hỏi thăm, mọi người đã chỉ dẫn lối lên nhà Nguyễn Trọng Tạo rất tận tình. Hồi ở Huế có phong trào nuôi cá trê phi, Tạo xây một cái bể lớn, thả ngàn con cá không để làm "kinh tế" mà để nhậu. Nhưng mới hai tháng rưỡi, cá chưa kịp lớn Tạo đã câu để làm mồi đãi bạn. Câu nhiều quá, cá nó sợ không dám lớn, không dám cắn câu nữa. Bạn nhậu đã đến mà cá chưa câu được con nào. Lão tức khí trổ lù cho nước thoát để bắt cá. Mới mấy tháng mà hết sạch bể trê phi!...

Tạo nuôi con gái lớn học đại học ở Hà Nội. Con học xong lo việc làm cho con, rồi lo cưới chồng cho nó, góp tiền cho vợ chồng con mua nhà chung cư. Hai đứa nhỏ ở Huế đứa nào cũng có máy vi tính từ bé. Lo cho con như Tạo không phải ông bố nào cũng làm được. Đối với bạn bè, Tạo cũng thật chí tình. Ai nhờ vẽ bìa sách, đọc bản thảo, viết giới thiệu sách, hay viết lời tựa cho các tập thơ, Tạo cũng giúp rất nhiệt tình. Tạo thức cả đêm để viết lời tựa cho người này người khác. Nhất là đối với các nhà thơ trẻ hay những người mới viết. Nhà thơ Văn Cầm Hải khi còn tuổi hai mươi, in tập thơ đầu "Người đi chăn sóng biển", Nguyễn Trọng tạo đã chăm chú đọc, viết lời tựa , vẽ bìa rồi liên hệ với Nhà xuất bản Trẻ cho tập thơ ra mắt công chúng. Riêng tôi, trong số 18 đầu sách đã xuất bản thì Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa, viết lời bạt hết 6 cuốn. Có mấy cuốn thơ, tiểu luận, tôi từ Huế email bản thảo ra nhờ giúp, thế là Nguyễn Trọng Tạo lui cui đi xin giấy phép, vẽ bìa, đưa đến nhà in, chấm mo-rát, rồi lại lo gửi sách vô Huế cho bạn. Có khi phải thêm tiền vào cho đủ để lấy sách ra. Không chỉ riêng tôi, mà Tạo giúp rất nhiều người như vậy. Hồi ở Huế, Nguyễn Trọng Tạo tuyển "Hai thập kỷ thơ Huế", tôi còn nhớ một hình ảnh rất cảm động. Vì tập tuyển có in ảnh từng tác giả, mà nhà thơ Thanh Hải đã quá cố không có ảnh lưu ở Hội, Nguyễn Trọng Tạo phải tìm đến nhà chị Thanh Tâm đơm hoa quả, thắp nhang vái anh Thanh Hải mới đưa được cái ảnh thờ xuống để chụp lại. Đó là nét văn hoá tâm linh rất chỉnh chu.

Nguyễn Trọng Tạo là người thích quảng giao. Bạn bè anh đông đảo từ trong nước đến hải ngoại. Bạn bè và các tổ chức mời anh đi ngao du nhiều chuyến ở Ba Lan, Châu Âu, Trung Quốc, Canada... để bàn luận, trao đổi văn chương, học thuật. Trong một chuyến thăm Bỉ, Nguyễn Trọng Tạo có bài thơ Cu đái khẩu khí, rất đời: nó đứng trên cao cười tít / đái qua đầu bạn đầu tôi / hoa hậu ngước nhìn vẫy vẫy.../ vòi nước cứ tuôn không ngừng / những bàn tay tranh nhau hứng / nước trời nước thánh rưng rưng". Bảng danh sách điện thoại của anh có cả ngàn tên người. Người mến mộ anh khắp cả nước không đếm xuể. Một đêm, đi ngang Tam Điệp, anh ghé vào thị xã, ông chủ tịch đi vắng. Nghe cán bộ điện báo tin có nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo ghé thăm, ông chủ tịch thị xã đang ở cách xa 30 cây số cũng phóng xe về chỉ để ôm hôn anh Tạo và xin được hát bài hát "Khúc hát sông quê" trước mặt tác giả. Tạo chơi thân từ ông Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh, huyện cho đến chủ một cây xăng, một người đạp xích lô. Tạo không câu nệ ông này sang, ông này không sang. Sẵn sàng gõ đũa hát Làng quan họ quê tôi, Khúc hát sông quê theo yêu cầu của bạn. Tạo có giọng hát vang và ấm. Hình như rượu càng sương thì Tạo hát càng bốc, càng hay. Mỗi lần về Huế, Tạo thường tổ chức tại nhà những cuộc "nhậu mặt trận". Gọi là "nhậu mặt trận" là vì đủ thành phần tham dự: ông lãnh đạo tỉnh, ông giám đốc công an Huế, bạn bè nhà thơ, nhà báo, ông chủ một doanh nghiệp, nhà thơ đạp xích lô... Đám văn chương Huế thân với Nguyễn Trọng Tạo có tôi, Nguyễn Khắc Thạch, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Văn Dũng (Dũng karate), Hồ Thế Hà, Mai văn Hoan, Văn Cầm Hải, Nguyễn Thanh Tú, nậu sách Trương Đức Thành, rồi Đại tá công an Đặng Quang, kiến trúc sư Thái Doãn Long, giám đốc điều tra rừng Mai Xuân Bách...Đó là những người gọi là "bạn ruột", hợp với Tạo. Khi say lên, thấy có gì không phải là Tạo mắng mỏ không nể ai. Ném vỡ tan cả con "dế" xịn của ông bạn vừa mới nhậm chức đầu tỉnh... Mỗi lần như thế tôi thường say theo Tạo và nằm đến hôm sau chưa tỉnh. Thế mà Tạo lại đi nhậu tiếp cuộc khác, rồi về nhà ngồi làm thơ, post bài lên blog tới khuya lơ mới ngủ. Có lần 2 giờ sáng, Tạo điện cho tôi thức dậy để nghe Tạo đọc 9 bài thơ vừa mới làm xong. Hồi đó tôi chưa có di động nên phải ra bàn cầm máy nghe. Tôi đứng trong đêm tối nghe thơ và chịu trận muỗi đốt tơi bời.

Có lần Nguyễn Trọng Tạo kể với tôi: "Mình họ Ngô ông ạ. Cụ Tổ mình tên là Ngô Đình Du, nhưng bà cô ruột lấy chồng họ Nguyễn không có con nên đưa cháu về làm con nuôi họ Nguyễn, và đổi họ thành Nguyễn Trọng Du". Tôi thích quá liền đùa: "Họ Ngô mới có người tài giỏi thế chứ!". Nguyễn Trọng Tạo là người có tài thiên bẩm. Anh kể với tôi nhiều chuyện oái oăm của cuộc đời anh. Tạo đa tài giỏi giang nhiều lĩnh vực thế, nhưng lại không có bất cứ một tấm bằng cấp nào trong chuyện học hành. Học cấp 3 Tạo là học sinh xuất sắc, giỏi cả văn cả toán từng thi học sinh giỏi toàn Quốc, nhưng khi đi thi tốt nghiệp do làm bài hộ cho bạn, thế là bị đánh hỏng. Sau đó thì đi bộ đội dài dài. Nguyễn Trọng Tạo được quân đội cử đi học Trường Viết văn Nguyễn Du khoá I, học đến năm cuối thì công bố bài thơ "Tản mạn thời tôi sống" nên phải rời trường, rời khỏi Văn nghệ Quân đội về lại Quân Khu Bốn(?). Điều kỳ lạ là con người đa tài làm ra rất nhiều bài hát hay ấy lại không học ở Nhạc viện ngày nào mà chỉ học vài lớp bồi dưỡng ngắn hạn trong quân đội. Có người bảo Nguyễn Trọng Tạo là nhạc sĩ duy nhất ở nước ta không biết chơi đàn (trừ đàn bà). Sống với Tạo mười năm ở Huế, tôi chỉ thấy anh mỗi khi sáng tác thì cầm ghi-ta để bấm "gam" và gõ nhịp, chứ chưa bao giờ thấy anh ôm đàn vừa hát vừa đệm như những tay sành điệu khác. Nhưng nhiều bạn học thời phổ thông của Tạo kể tôi nghe là anh đã từng tự làm một cây đàn violon rất đẹp và chơi đàn violon cho toàn trường nghe vào ngày chào cờ đầu tuần. Hẳn nhiên là biết chơi đàn và biết kỹ thuật để sáng tác nhạc là điều hoàn toàn khác nhau, nhưng phải nhận rằng nhạc sĩ mà không thèm chơi đàn cũng là chuyện lạ lung "xưa nay hiếm".

Có chuyện lạ nữa là một người nổi tiếng tài hoa cầm kỳ thi họa như Nguyễn Trọng Tạo, lại không có nhà ở. Trong khi đó có ông quan chiếm dụng mấy nhà của nhà nước, thì Tạo 10 năm ở Huế, đóng góp nhiều cho Huế nhưng anh không được cấp nhà như những người khác. Anh cứ ước ao có một căn hộ (căn hộ chung cư cũng được) để gọi là "nhà mình". Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lúc đó là Phó Bí thư thường trực tỉnh uỷ đã phê vào đơn xin nhà của anh "đề nghị giải quyết" rồi, nhưng cơ quan này đổ cho cơ quan khác, chạy năm lần bảy lượt không được, đành phải "bỏ của chạy lấy người" ra "nương thân" ở Hà Nội. Nhờ bạn bè mỗi người một tay vun vào, Tạo mua được căn hộ 62 mét vuông ở tầng 6 khu chung cư. Ở trên cao ấy, lại không có cầu thang máy, mỗi lần say rượu lên xuống như đi trong mây. Tạo ra Hà Nội, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị tai biến nằm một chỗ, thế là cái "Chi hội nhà văn Bến Ngự" của chúng tôi tan rã. Ngày Tạo còn ở Huế, ông Tường còn lành, chiều nào ba chúng tôi cùng ngồi với nhau ở một quán cóc nào đấy để nghe "Tường nói", và nghe Tạo "cảm và luận".Nhắc đến Tường lại nhớ chuyện Tạo làm báo. Tạo là người có chính kiến mạnh, có tài phát hiện và rút tỉa vấn đề đưa lên báo những điều bạn đọc rất quan tâm. Đến nay Tạo đã từng trực tiếp làm bốn tờ báo là tạp chí Cửa Việt, Tạp chí Âm nhạc, báo Thơ (chuyên san của báo Văn Nghệ) và tạp chí Sao Việt. Tạo làm Cửa Việt cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Quang Lập nổi đình nổi đám, nức lòng văn nghệ cả nước, nhưng được 17 số thì bị đóng cửa. Làm Tạp chí Âm nhạc thì đẩy 3 tháng/kỳ lên 2 tháng/kỳ, rồi lên tháng/kỳ, chất lượng và hình thức đều được cải tiến mạnh mẽ, nhiều người thích, nhưng đến khi Tạo nghỉ hưu thì nó lại trở về mốc cũ. Tạo làm báo Thơ từ A đến Z như tổ chức bài vở, biên tập, làm mi báo, trình duyệt bài, rồi ký bản đưa in... Báo Thơ ra được 18 số thì Tạo bỏ vì không chịu làm khác ý mình. Tạo nhận làm Tổng giám đốc VVT cũng là để làm báo, đưa ra tạp chí Sao Việt được 4 số đầy hy vọng, nhưng, vừa được chú ý đã bị "xem lại giấy phép" và không bao giờ thấy tạp chí Sao Việt nữa. Phải nói thật tình rằng đó là những tờ báo hay, gợi lên được nhiều vấn đề về học thuật và dân chủ, được độc giả trí thức và bạn đọc cả nước tìm đọc, vì số nào cũng có những "vấn đề" đáng quan tâm. Ví dụ trên báo Thơ có bài viết rất xác đáng về vấn đề "thơ tình dục", hay những bài phỏng vấn đối thoại nảy lửa nghề nghiệp với các nhà thơ nổi tiếng... Trong tủ sách nhà tôi, 17 số Cửa Việt thời Tường - Tạo - Lập, 18 số báo Thơ là các loại báo duy nhất được đóng thành tập để lưu trữ làm tài liệu tham khảo lâu dài. Tạo vẫn khen "bọn lãnh đạo giỏi" ấy là thời Nguyễn Khoa Điềm (dưới bí thư, trên phó bí thư) mời Tạo làm phó Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nhưng ông bí thư phán xanh rờn: "Huế hết người tài sao phải mời Nghệ An?" Thế là thôi...

Nhưng hình như Nguyễn Trọng Tạo không làm báo không sống được. Anh viết bài đã đành, nhưng anh phải "làm báo". Rời các cơ quan báo chí nhà nước, Tạo về mở ba bốn cái blog, và tuyên bố "tôi muốn biến blog thành báo điện tử của riêng tôi". Tạo là người hăng hái cổ võ nhiều người chơi Blog, góp phần hình thành nhiều Câu lạc bộ Blog ở các địa phương và được cử làm chủ tịch Hội Blogger Hà Nội của Vnweblogs. Anh dựng mấy chục blog cho bạn bè: Ngô Minh, Phạm Dạ Thuỷ, Hoàng Vũ Thuật, Hải Kỳ, Mai Văn Hoan, Hoàng Cát, Nguyễn Quang Lập, v.v... Ai không tự post bài, ảnh lên blog được thì cứ mail bài, ảnh cho Tạo. Anh giúp tất cả mọi người. Cái tình ấy không ai quên! Riêng một mình Tạo có ba cái blog: Nguyễn Trọng Tạo, Hội ngộ văn chương, Sao Việt, cái nào cũng thuộc loại "blog sôi nổi nhất". Blog Hội Ngộ Văn chương hay Nguyễn Trọng Tạo như là hai tờ báo văn chương mạng rất hấp dẫn độc giả. Rồi anh kết hợp với bạn văn hải ngọai lập website Hội Luận Văn Học Việt Nam nhằm hợp lưu các dòng văn học Việt. Nghĩa là Tạo vẫn không chịu bỏ báo. Anh dùng báo để nói những nỗi niềm tâm huyết của mình về văn chương và cuộc đời. Âu đó cũng là cái duyên cái nghiệp của anh.

Cho đến bây giờ, đã gần ba mươi năm bài thơ Tản mạn thời tôi sống của Tạo ra đời, nhưng "Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi. Câu trả lời thật không dễ dàng chi" như vẫn vận vào xã hội, vận vào người nghệ sĩ tài hoa này...

7-2008

Ngô Minh

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2008

Vắng em rồi anh mới hiểu mùa thu


Vắng em rồi anh mới hiểu mùa thu
Mùa hương tóc chẳng bay trong nắng sữa
Mùa hoa cúc chẳng xanh như thế nữa
Lá úa vàng hiu hắt gió heo may

Vắng em rồi anh mới hiểu mùa thu
Trời xanh ngắt nhuộm màu vắng vẻ
Khúc sông buồn giọt mưa ru lặng lẽ
Để đò chiều
ai đã lỡ
quên qua…

Vắng em rồi anh mới hiểu tình thu
Chẳng trói buộc bằng những lời giả dối
Chẳng gặp nhau mà đôi tim thức vội
Vườn hoang kia còn giữ dấu hôn sâu

Anh mải tìm trong mỏi mòn tượng đá
Chờ đợi em quên lãng cả mùa thu
Mùa thu ấy cứ thản nhiên thay lá
Chỉ mình anh
đuổi bắt với Cô đơn…

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2008

Nhạc sỹ Phạm Duy


Nhạc sỹ Phạm Duy, một cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam, với những tác phẩm để đời như: "Tình ca", "Bên cầu biên giới", "Bà mẹ Gio Linh", "Con đường cái quan",.... Tên thật là Phạm Duy Cẩn, xuất thân trong một gia đình văn nghiệp, cha ông là nhà văn Phạm Duy Tốn.
Phạm Duy viết nhiều thể loại nhạc, và ở thể loại nào cũng có những tác phẩm lớn. Giai điệu âm nhạc trong sáng, phong phú, ca từ giàu chất thơ, rất biểu cảm và dễ đi vào lòng người. Bài đầu tiên tôi được nghe nhạc Phạm Duy hồi nhỏ là bài "Cây đàn bỏ quên". Nghe cũng chưa hiểu gì nhưng thích giai điệu nhẹ nhàng, du dương của bài ca. Sau này nghe bài "Tình ca" do ông viết vào khoảng năm 1953 thì tôi bị chinh phục bởi nhạc của ông. "Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời". Tiếng nước tôi ở đây có phải là văn hóa âm nhạc Việt Nam, một nền âm nhạc đậm chất phương Đông?
Trân trọng giới thiệu với các bạn bài viết về nhạc sỹ Phạm Duy của một người bạn của ông, nhà thơ Hoàng Cầm.
---------------------------------------------------------------

Phạm Duy và tôi


Người trẻ tuổi lãng tử ấy đi phơi phới trong màu xanh núi rừng của Việt Bắc. Anh chàng vứt bỏ cái vét tông rẻ tiền ở Hà Nội phù hoa đổi lấy bộ quần áo chàm. Với cái ca lô đội lệch, vàng xỉn, chả biết xin được của ai, dáng vẻ lẳng lơ và cái ba lô con cóc, đôi giày ba-ta đã hơi hơi há mõm, trông đúng cậu công tử Hà Nội nghèo, vì thích ca hát, mê đời tự do, bỏ nhà đi hát rong. Anh chàng hát rong dễ dàng hòa nhập với những ngày tháng đầu tiên - còn rất lãng mạn - của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Một ngày giữa năm 1947 - Tôi và vợ tôi, Tuyết Khanh, đang còn ngơ ngẩn tiếc những đêm diễn kịch thơ Kiều Loan ở Nhà hát thành phố bị đứt đoạn vì những trò khiêu khích của bọn mũ nồi xanh, lính của tướng Leclerc, hai vợ chồng đã xông lên một vùng rừng núi đang rất xa lạ với mình, nhập luôn vào vệ quốc đoàn chiến khu 12, rồi mày mò, tìm bạn, thành lập ngay một đội văn công đầu tiên của Quân đội, gồm 12 anh chị em, 3 nữ 8 nam với một cậu y tá mang túi thuốc nghèo nàn, cứ khăng khăng xin với ông Lê Quảng Ba, chỉ huy trưởng quân khu, được đi theo đội văn nghệ để trông nom sức khỏe cho mọi người nay đây mai đó, đến với từng trung đội, đại đội vệ quốc quân, dân quân, du kích khắp bốn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Lạng Sơn để biểu diễn đủ loại kịch ngắn, kịch nói, kịch cương, ngâm thơ, hát tốp ca, đơn ca, múa vài ba điệu dân dã học được của đồng bào miền xuôi, miền ngược. Tóm lại là một tốp nhỏ anh chị em hăng hái và sôi nổi phục vụ một cuộc “trứng chọi với đá” thật kỳ thú trong lịch sử một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục bất cứ một loại giặc xâm lược nào, giặc to đến đâu, sức mình bé đến mấy cũng đánh, mà đã đánh là phải thắng. Hồi đầu kháng chiến ấy, những “tiết mục” rất xoàng xĩnh, thậm chí có khi ngô nghê nữa, mà sao các anh nông dân mặc áo lính còn chưa đọc thông viết thạo lại say sưa thưởng thức đến thế! Nửa đêm nay tiểu đội A đánh phục kích ư? Trung đội C đi quấy rối địch ư? Chập tối họ vẫn được nghe giọng ngâm thơ sang sảng...

Đêm liên hoan, bạn ơi, đêm liên hoan
Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết vệ quốc đoàn.
(Đêm liên hoan, thơ H.C.)

Nhiều khi họ lại “đồng ca” luôn theo đội văn nghệ:

Đường ta ta cứ đi
Nhà ta ta cứ xây
Ruộng ta ta cứ cày
Đợi ngày...

Say sưa, họ còn vỗ tay nhịp theo điệu hát:

Ngày mai ta tiến lên
Diệt tan quân Pháp kia
Cười vui ta hát câu tự do...
(Nhạc tuổi xanh - P.D.)

Vào một buổi chiều cuối thu 1947, trên đường đê sông Máng đi từ đập Takun (tiếng Pháp đặt thay tiếng Việt: tên gọi đập Thác Huống) có 3 người, 1 quàng guitare, 1 đeo accordéon, 1 cầm clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của đội văn nghệ tuyên truyền khu 12. Đó là các anh Phạm Duy, Ngọc Bích và Ngọc Hiền, đang tìm về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi đoàn kịch Chiến thắng của các anh giải thể. Tối hôm đó, trong căn nhà ấm cúng ven rừng Yên Thế, trong ánh sáng ngọn đèn măng sông, ông Lê Quảng Ba giới thiệu ba chàng văn nghệ sĩ này với tôi. Ồ, có gì lạ nhau đâu, Phạm Duy đây mà, với giọng nói cố làm ra vẻ trịnh trọng: “Tôi ở trên ban văn nghệ trung ương, nghe tin anh Hoàng Cầm mới lập một đội văn nghệ lưu động, tôi và hai bạn tôi đây nhất quyết về với các bạn khu 12, vì toàn là trẻ trung cả”.

Rồi qua cặp kính trắng rất tài tử, Phạm Duy chớp chớp đôi mắt lẳng lơ nhìn các nữ diễn viên trẻ đẹp của tôi: Tuyết Khanh, Thúy Nga, Kim Oanh, đến nỗi cả ba cùng ngượng nghịu, đưa mắt nhìn nhau, tủm tỉm. Tôi với Phạm Duy quen biết nhau từ sau Cách mạng Tháng Tám. Chỉ biết qua loa về gia cảnh anh, hình như có chuyện éo le gì đó. Mới 15 tuổi anh đã bỏ nhà đi theo những bậc đàn anh như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Đàm Quang Thiện, học được cách ghi xướng âm và những điều cơ bản về âm nhạc, chẳng bao lâu tài năng bộc lộ, anh chịu khó chắt lọc, sử dụng tinh hoa dân ca miền Bắc. Vốn thông minh, học một biết hai, anh đã có thể đi đàn ở các tiệm nhảy để mưu sinh. Vốn là một cậu con trai có dòng dõi văn hóa nghệ thuật lại sớm đa tình, miệng cười rất có duyên, tán chuyện với những cô gái cũng rất hóm hỉnh, quyến rũ, nên anh chàng bảnh trai này sớm có những chuyện dập dìu yến oanh. Sẵn có một trái tim đa cảm, nhiều cánh vỗ vào bầu trời lãng mạn, vào không khí trữ tình, vào cả gió bão thất thường của những năm thế chiến mà xứ xở Việt Nam không thể không bị cuốn vào cơn lửa khói hỗn độn, anh chưa bao giờ ở lâu một chỗ, tuổi trẻ của anh bềnh bồng gió Bắc mưa Nam, và ánh sáng nhấp nháy của những đô thị náo động cũng cuốn anh vào những xập xình của cuộc sống phồn thực, mà khoái cảm là một phương thuốc hiệu nghiệm để trốn chạy thực tế bão táp phũ phàng. Nghèo, nhưng mang cái máu như của thi sĩ Tản Đà đã tự thú nhận: “Giang hồ mê chơi quên quê hương”, anh chỉ khác Tản Đà ở chỗ tâm hồn không neo vào một bến quê nào nhất định, hồn anh từ 16 tuổi đã phiêu bạt và phiêu diêu với nhiều đam mê. Lắm khi chao đảo, anh không lúc nào muốn buộc mình vào một sợi dây vướng víu, kể cả sợi dây tơ tình đẹp nhất, anh cũng chỉ choàng lên cổ tự ngắm vuốt, tưởng như thích thú lắm, nhưng rồi chỉ mấy ngày bướm đậu rồi bướm lại bay thôi, anh có thể lại bứt đi mà tiếp bước giang hồ nhẹ tênh.


Tôi rất thích khi có bộ ba “xe pháo mã” ấy, một bộ ba mà Phạm Duy là cái xe không lúc nào muốn dừng bánh. Từ cuối năm 1947 ấy các anh đã thành côpanh (bạn chia nhau từng mẩu bánh) của tôi. Ngọc Bích thì vui tính thường viết những bài hát vui, giản dị cho bộ đội dễ thuộc, Ngọc Hiền ít nói hơn nhưng với chiếc kèn clarinette lắm lúc cứ nỉ non thiết tha như mời gọi, anh lại hóm hỉnh, lúc nói chuyện đã pha trò là có duyên hấp dẫn ngay.

Riêng Phạm Duy, trong khoảng 13 tháng sát cánh bên nhau tôi cần phải nói rằng có anh trong đơn vị, người tôi như mọc thêm cánh. Đóng quân ở đâu độ bốn năm ngày là anh đã sốt ruột rồi, lúc nào anh cũng ham cảnh vui, người lạ, những cuộc “kỳ ngộ” trên đường rừng, lối mòn Thái Nguyên, Lạng Sơn. Bắc Giang, Đồng Mỏ, rồi Phố Bình Gia, Văn Mịch, rồi từ sông Thương đến sông Kỳ Cung, từ đèo Nong “nghìn thước lên cao, nghìn thước xuống” (Quang Dũng) nối đất cụ Đề Thám với xứ sở Cai Kinh, Đèo Đồng Mỏ thấp hơn, nhưng lại tình tứ hơn vì trên đỉnh đèo có mấy quán cà phê, trứng, sữa, bán cả phở bò, cháo gà, mà chủ nhân phần lớn là mấy chị em người thành thị tản cư, áo phin nhuộm nâu, quần lĩnh tía, vẫn còn thướt tha cái “dáng kiều thơm”, chưa quen nỗi truân chuyên trong khói lửa loạn ly.

Tôi thường chiều ý Phạm Duy, vì biết hễ cứ xê dịch luôn có cảnh đẹp lạ mắt, có những cô gái xinh tươi thì thế nào anh cũng bật ra được những giai điệu say mê, trữ tình, mặc dầu đề tài nhiều bài ca nổi tiếng của anh không phải là chuyện tình nam nữ hoặc chuyện xa cách nhớ nhung, thở ngắn than dài như một số ca khúc buồn trước cách mạng. Tôi cứ chuyển quân liên miên, nay đơn vị A, mai sang đơn vị B, nay vừa biểu diễn ở Nhã Nam, mai đã sang Bố Hạ, ngày kia đã tưng bừng tiếng ghi ta thánh thót trong đêm lạnh chân núi Mẫu Sơn, rồi chỉ vài hôm sau, đội của tôi đã hát vang trong bóng núi Chi Lăng, nơi gần 600 năm trước, tên giặc Liễu Thăng chết gục dưới mũi kiếm của đoàn quân do Bình Định Vương Lê Lợi chỉ huy và thiên tài Nguyễn Trãi bày mưu tính kế. Có thể nói chúng tôi đi không biết mỏi. Ngày đi, tối biểu diễn, có khi trên sàn nhà đồng bào Tày, có khi đốt lửa trong hang đá lạnh thấu xương hát cho tiểu đoàn của anh Thế Dũng vừa thắng trận Bông Lau trở về. Thường những đêm như thế đội văn nghệ chúng tôi đặc biệt là Phạm Duy tha hồ mà thưởng thức loại cà phê thượng thặng và hút thuốc lá “Craven A” cao cấp trong hàng đống chiến lợi phẩm mới thu về.

Sáng ra lại xuất quân. Phạm Duy mê man đi, vừa đi vừa lẩm nhẩm thầm thì sáng tác thì chợt đến khi bắt được một giai điệu đẹp, tha thiết, là anh ngồi ngay xuống tảng đá bên đường, lấy bút giấy ra ghi. Nếu chỉ qua được một đoạn đường mà xong được một bài, anh lập tức kêu tôi và các bạn dừng lại, túm tụm trên vệ cỏ, nghe anh hát.

Đường Lạng Sơn âm u (ù u)
Giờ bình minh êm ru (ù u)
Vẳng nghe tiếng súng trong sương mù
Đường Thất Khê bao la (à a)
Rừng núi ta xông pha (à a) .......
Thường những lúc như thế, nhân thể tôi cho toàn đội nghỉ, tìm một xóm nhà dân nào đó gần nhất, xin trú quân, thổi cơm ăn, đồng thời bảo mấy tốp ca học thuộc ngay bài hát anh vừa hoàn thành. Cứ như vậy, toàn đội, đặc biệt là Phạm Duy đã truyền cho tôi sức mạnh dẻo dai để vừa đi vừa sáng tác. Ghi ngay thành thơ hoặc chủ đề kịch ngắn những cảm xúc, những ý tứ bất chợt lóe lên trong tôi. Sáng tác đến đâu biểu diễn luôn đến đấy, anh chị em lại động viên tôi say sưa với nhiệm vụ của người đội trưởng tháo vát, biết tổ chức đời sống, chỉ đạo phương hướng làm việc đạt hiệu quả cao nhất trong các đơn vị bộ đội đóng rải rác khắp bốn tỉnh và trong các làng bản mà nhân dân tuy chưa hiểu kháng chiến được bao nhiêu, nhưng do những lời ca tiếng hát, nên đã yêu mến và hết lòng ủng hộ bộ đội, nuôi chiến sĩ và làm nghĩa vụ với chiến trường. Chỉ trong vòng chưa đầy 12 tháng, Phạm Duy đã liên tục sáng tác hàng chục ca khúc, có nhiều bài chỉ hát đôi ba lần, bộ đội đã thuộc lòng, chúng tôi còn phân công nhau dạy hát cho các đơn vị từ trung đội đến trung đoàn và cả nữ dân quân, dân công tải đạn, cáng thương bệnh binh. Gì chứ về cái công việc này thì Phạm Duy hăng hái, sôi nổi nhiệt tình số một, vì bất cứ ở đâu có nhiều chị em, thể nào Duy cũng thì thầm cho đội trưởng biết: cô kia có đôi mắt đẹp quá, chị này thật lẳng lơ, cô nọ sao lại có nụ cười quyến rũ thế kia, tôi cũng thừa biết cái thú say mê ấy của Duy đã đẩy ngòi bút xúc cảm của anh ghi nhanh nhiều giai điệu nồng nàn uyển chuyển, với lời ca thắm thiết, với bao nét nhạc khí phách hào hùng hay hào hoa phong nhã nữa kia, nên bao giờ tôi cũng đồng tình với Duy về một loại công việc mà Phạm Duy thường nói đùa là “việc sinh sự, sự sinh” ấy. Tôi nhớ mãi một chuyện ở phiên chợ Bó Tuổng, dưới chân đèo Đồng Mỏ, có ba chị em người Nùng thấy Phạm Duy ngồi ở một cái quán nước tay đàn miệng hát. Thế là các cô cứ xán đến, rất bạo dạn, kéo vai áo anh nhạc sĩ đẹp trai này và ân cần, nài nỉ mời anh và cả “đồng chí chỉ huy nữa vớ!” về nhà chúng em chơi đi, gần đây thôi vớ, đàn hát cả đêm nay đi, hay lắm vớ. Pì noọng chúng em thích bộ đội đàn hát lắm đấy mà!

Phạm Duy nháy mắt với tôi như muốn bảo: đội trưởng đồng ý chứ? Chuyến công tác ấy, vợ tôi vì có thai đã được 6 tháng, cấp trên bắt tôi phải để vợ nghỉ an dưỡng trong một quân y viện ở huyện Hữu Lũng, do vậy tôi cũng được rảnh rang hơn, nhưng trước sự mời mọc quá tha thiết, ân cần của ba cô gái người Nùng tôi phân vân do dự, bối rối vô cùng. Ngày hôm ấy chúng tôi còn phải đi gần 20 cây số nữa đến điểm hẹn biểu diễn phục vụ một trung đoàn sẽ có mặt cả ông Lê Quảng Ba, ông Phan Phúc Tường, Chính ủy Quân khu và nhiều cán bộ đang chuẩn bị những trận đánh lớn dọc quốc lộ số 4, một con đường chiến lược huyết mạch của địch nối liền từ Quảng Ninh lên đến Cao Bằng. Ông Quảng Ba đã có liên lạc hẹn trước với tôi rồi. Không thể về nhà ba cô gái kia được. Bây giờ đã gần 9 giờ sáng, chơi chợ một lát rồi phải đi ngay, chiều đến nơi, ăn cơm xong, nghỉ một lát là biểu diễn luôn. Vậy rẽ ngang mà du hí thé nào được. Hồi đó tuy quân phong quân kỷ còn sơ sài, kỷ luật cũng chưa chặt chẽ lắm, nhưng tôi rất lo trách nhiệm của mình, không thể làm lỡ việc của anh Ba, để bộ đội phải chờ đợi văn công. Tôi khăng khăng từ chối. Phạm Duy cứ thuyết phục năm lần bảy lượt, thì thầm những lời đường mật “Bộ đội vẫn ở đây, không ở chơi với gia đình đồng bào Tày Nùng lấy một ngày, với ba cô bé xinh đẹp của xứ Lạng thế này, tao thấy tiếc, tiếc lắm. Đồng ý đi mày, mai anh Ba có phàn nàn gì, mày cứ bảo tao bị sốt rét dọc đường, là được”. Tôi càng bối rối vì trong tôi: trách nhiệm và thích thú cá nhân đã giằng co nhau mãnh liệt, lại phải cái tính cả nể, nên có lẽ mặt mũi tôi lúc đó chắc là trông buồn cười lắm. Rồi cả ba cô tiếp đến chín, mười cô và dễ thường đến một nửa cái chợ Bó Tuổng ấy mỗi lúc một xúm đông quanh chúng tôi và Phạm Duy. Họ cũng đoán tôi là “cấp chỉ huy” gì quan trọng lắm đây, nên các cô gái cứ vây lấy đồng chí chỉ huy à! Về nhà chúng em vớ, vui lắm vớ! Trừ có vợ chồng nhạc sĩ Văn Chung là không có ý kiến gì, còn hầu hết anh chị em trong đội của tôi đều tán đồng với anh chàng “đầu têu” họ Phạm: - Nên đi cho biết anh Cầm ơi! Bộ đội thì quen quá rồi còn đồng bào miền núi, mình đã biết gì lắm đâu! Đồng ý đi, anh đội trưởng! Cuối cùng tôi cũng đành nhượng bộ và quả thật, từ lúc đến nhà ba cô, cuộc vui thật là “đầy tháng” (tuy chỉ có nửa ngày và một đêm) và “trận cười suốt đêm” (Nguyễn Du).

Sáng hôm sau, lúc chia tay với gia đình ấy trông Duy ỉu xìu: dùng dằng mãi không quàng nổi cái dây đàn lên cổ, còn riêng tôi khi xuống cái cầu thang nhà sàn, sóng đôi với cô chị lớn tuổi nhất ra đến đầu ngõ, tôi cảm thấy hồn mình đã bị ai buộc chặt vào cái cột nhà sàn mất rồi, chỉ còn cái xác vật vờ, chệnh choạng mà vào phút cuối cùng chia tay với cô chị (tôi còn nhớ tên là Ché Mai níu chặt cánh tay tôi, đưa vạt áo chàm lên lau nước mắt, tôi thì nghèn nghẹn, không nói được gì, nước mắt cứ ứa ra, nhòe hết núi đá, rừng cây và con đường đá trắng quanh co trước mặt.

Khổ! Cái anh chàng nhạc sĩ họ Phạm này, cũng y hệt mình thôi, cứ đến “chuyện ấy” tưởng được vui hóa ra lại chuốc lấy cái sầu li biệt. Với Duy nó cũng nhẹ thoảng qua thôi, chứ với tôi, cuộc chia tay ấy nặng như núi đá cứ xanh thẫm cái màu chàm quái ác và đằng đẵng mãi đến khi kết thúc công tác phía Lạng Sơn, về xuôi rồi thậm chí đến hôm nay nữa, khi ngồi viết ra mấy trang hồi ức này tôi vẫn không nguôi nỗi nhớ.

Quả vậy, tôi rời cái bàn của Ché Mai, nặng lòng bao nhiêu thì khi ra đến mặt đường tỉnh từ Đồng Mỏ lên Phố Bình Gia, Phạm Duy lại phơi phới bấy nhiêu. Anh ta vẫn nhẹ tễnh cái hồn say sông núi, cỏ cây xứ Lạng. Rồi mấy anh trong đoàn lại vừa đi vừa hát, nhiều khi làm thơ kiểu “nối điêu” nhưng bắt buộc một câu bảy chữ phải cùng một âm cốt, ví dụ: Đường đá đưa đoàn đi đến đâu để quên cái đoạn đường đá lởm chởm đang nhức gan bàn chân. Văn Chung xướng ra câu đầu tiên: Đường đá đưa đoàn đoàn đi đến đâu. Một lát Phạm Duy nối: “Xa xưa xam xám xuống sương sầu”. Tôi quên mấy câu do Trúc Lâm, Ngọc Hiền, Ngọc Bích làm tiếp theo, riêng tôi là người làm thơ thì lại chẳng bật ra được chữ nào vì đang lo việc về chậm nơi tập kết, và cứ nao nao nhớ Ché Mai. Mới biết về chuyện ân tình nam nữ thì Phạm Duy khá nhẹ nhõm, anh ta như gió thoảng qua trên hoa lá, lẳng lơ tình tứ đấy mà quên ngay đấy, rồi ngọn gió ấy lại thổi tạt con bướm non sang chòm hoa lá khác. Có lẽ do cái bản chất tênh tênh ấy, mà càng lưu diễn qua nhiều nơi mới lạ, thì anh lại càng sáng tác được nhiều chăng? Mà không biết có phải cũng vì thế mà phần lớn ca khúc anh viết ở Việt Bắc 1947-1948 đều như thiếu một khoảng gì (không cần sáng lắm) để chạm chìm vào lòng người những nét suy tư sâu sắc? Bài nào anh viết ra đều nhẹ nhõm, dễ thuộc, cũng có thể nhớ lâu, nhưng nhớ lâu chưa chắc cùng một vần với nhớ sâu. Ở những tác phẩm của anh hồi đầu kháng chiến, tôi ít thấy cái da diết thắm thiết đến khắc khoải như một vài ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao... Nhưng quả thật Phạm Duy là người viết ca khúc được hầu hết các chiến sĩ bộ đội, cán bộ và thanh niên nam nữ khắp Việt Bắc lúc bấy giờ yêu mến nhất, nhắc nhở nhiều nhất, vượt xa các nhạc sĩ nổi tiếng khác cùng thời.

Đến khi cuộc sống kháng chiến đi vào chiều sâu thì anh đã không còn ở bên tôi nữa. Như con chim ưa tìm xứ lạ, anh đã bay đi và để lại trong tôi một cái gì giống như tiếng sáo vi vu, giàn giụa tình nghĩa xóm quê xa với những nẻo đường cũng đã quá xa, tưởng chừng khó còn khi gặp lại.


Mười ba tháng tròn bên nhau, ăn cùng một rổ khoai sắn, chia nhau từng cái bắp ngô nướng bếp nhà sàn, từng đọt măng mai măng nứa, đắp chung nhau cái chăn trấn thủ mỏng dính, hụt hẫng như ca dao của Lê Kim “Đắp dọc thì hở hai bên, đắp ngang thì lạnh như tiền cái chân...” rồi cùng chia nhau cả những dây tơ tình vắt thoáng qua lướt nhẹ hai vai, rồi đến cả mấy bài hát sáng tác ngay bên cạnh tôi, anh cũng cho phép anh đội trưởng điếc đặc âm nhạc này được hoan hỉ nhập vào một tốp ca do anh bố trí người đàn người hát, ngược lại mấy bài thơ “dài dòng văn tự” của tôi (Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống, Tâm sự Đêm giao thừa, Tiếng hát sông Lô) anh cũng xin cho tôi được “đồng ngâm”. Tôi đã chia đoạn mỗi bài thơ ấy như để đối xướng và giao cho anh những phần có thể ngâm nhiều hơn đọc. Anh thích ngâm thơ và cũng đã thành một “cây ngâm thơ” không phải hạng xoàng. Vậy thì tôi đã giúp gì được anh? Có lần trong chuyến đi công tác dọc tả ngạn sông Cầu, đi đường, một bên là Phạm Duy, một bên là vợ tôi, không biết từ đâu và do cảm hứng gì, thật bất ngờ tôi đột nhiên cất cao giọng “hát” trọn vẹn một bài thơ của Lưu Trọng Lư mà tôi rất thích.


...Ai có nghe tiếng hát chị đò đưa
mà không nhớ thương người quả phụ...
Nằm ấp bóng trăng thưa...

Tôi hát thật (hoàn toàn không phải “ngâm” như vốn là “nghề” tay trái của tôi, mà cũng là “cao tay nghề” “nhà nghề” lắm lắm, nghề ngâm thơ).
Dẫu chỉ là ngón sở đoản của tôi, Phạm Duy cũng rất thích rồi... ngược đời thật... Phạm Duy lại “học hát” ở một anh bạn “mít xoài” âm nhạc. Đầu tiên, chỉ là những trò chơi cho quên vất vả dọc đường, nhưng dần dà lại ngấm sâu vào cả tôi và anh. Tôi biết Phạm Duy say mê dân ca, anh luôn luôn lắng nghe và tìm hiểu để thụ nhập những lời ca điệu hát của biết bao trai gái quê Bắc Ninh, Bắc Giang, cả những anh chị người Tày, Nùng mà trong 13 tháng ấy anh luôn luôn được tiếp cận. Bởi thế nên hơi thở của dân ca xứ Bắc đã trở thành sinh khí trong các ca khúc Phạm Duy hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Chỉ cần một phẩm chất ấy trong các sáng tác của anh thời đó là đủ cho tên tuổi anh thành thân thiết với bộ đội và nhân dân từ trung du đến biên cương phía Bắc. Từ khi chia tay với anh lần cuối vào khoảng sau tết âm lịch năm 1951, tuy xa cách, tôi vẫn nhận được nhiều tin về sáng tác của anh. Vào công tác ở khu Bốn dưới trướng thiếu tướng “Mạnh Thường Quân” Nguyễn Sơn, một ông “nhà binh” lại đam mê văn nghệ, Phạm Duy đã viết những ca khúc đặc sắc: Về miền Trung, Bà mẹ Gio Linh, Bên ni bên tê... chứa chan sắc thái miền Trung, Miền thùy dương bóng dừa ngàn thông, Thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông...dài... Chúng tôi nghe thấy rõ tiếng sóng bờ biển Quảng Bình, tiếng xao xuyến những đợt mưa ngàn, mưa núi Quảng Trị, thấy cả một bầu trời xanh, rất xanh màu “hai châu Ô, Lý vuông nghìn dặm" (Tản Đà) từ thuở Chiêm Thành, đã tưởng mất hút qua thời gian lặng lẽ và lạnh lùng. Phong vị dân ca quan họ đã theo anh vào nhiều ca khúc, đặc biệt là bài Khúc hát hành quân xa thì giai điệu, âm sắc và tiết tấu nào có khác gì với bài thơ Lưu Trọng Lư mà tôi đã bất chợt hát trên đường hành quân bên bờ sông Cầu năm ấy?
Hà Nội, tháng 12.1993
Hoàng Cầm

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2008

Gửi người dấu yêu


Không biết lấy gì để tặng em
Anh dùng tên một loài hoa dại
Loài hoa ấy tỏa hương thật khẽ
Khắc trong lòng một mối tương tư

Không biết lấy gì để tặng em
Anh lang thang đi nhặt mây và gió
Để kết thành trái tim màu đỏ
Gửi trao em trong buổi hẹn đầu tiên

Không biết lấy gì để tặng em
Chỉ một tấm chân tình tha thiết
Ở nơi xa em yêu ơi có biết
Có người si vẫn chờ gió gửi trăng


Darmstadt, 13/07/2008

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2008

Học giả Nguyễn Hiến Lê


Khi còn nhỏ, tôi được đọc một số quyển sách của học giả Nguyễn Hiến Lê như: Sử kỹ Tư Mã Thiên, Quẳng gánh lo đi và vui sống (dịch từ Dale Carnegie), Đắc nhân tâm (dịch từ Dale Carnegie), Đời viết văn của tôi,... Có những quyển đọc thì hiểu, có quyển không hiểu nhưng tôi rất thích cách viết mộc mạc, giản dị của ông. Có cảm giác khi viết văn, Nguyễn Hiến Lê dâng tặng cho đời một tấm lòng, một nhiệt huyết, một trái tim nồng nàn yêu thương (cũng đúng như tên của ông, Hiến Lê). Vì thế mà những trang viết của ông bao giờ cũng giàu sức thuyết phục độc giả.

Khi tìm hiểu về cuộc đời ông tôi được biết, trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc. Tôi còn kinh ngạc hơn khi biết, ông làm việc đều đặn 13 tiếng đồng hồ mỗi ngày gồm 6 tiếng để đọc tài liệu và hơn 6 tiếng để viết. Thời gian biểu này được áp dụng một cách nghiêm ngặt không ai được vi phạm kể cả chính ông, nhờ vậy mà ông đã hoàn thành một khối lượng công việc, tác phẩm nghiên cứu, dịch thuật đồ sộ [1].

Một điểm nữa tôi chú ý về ông là ông sinh năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu, nghĩa là có tuổi về phần can nhằm chữ "Tân". Trong tử vi, những người có phần can như vậy thường có nỗi khổ riêng, hay phải lo nghĩ nhiều. Ngẫm lại mình, tôi cũng sinh năm Tân Dậu, nên có lẽ cũng như vậy chăng?

Tôi tâm đắc mấy câu "tự bạch" sau của ông: "Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác", "Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không".

Xin mời các bạn đọc bài viết sau về học giả Nguyễn Hiến Lê của tác giả Lê Anh Dũng. Bài này có nhiều thông tin về thân thế và sự nghiệp văn chương của học giả.
----------------------------------------------------------------------
Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) sinh tại Hà Nội, nguyên quán ở Quảng Oai, Sơn Tây (Hà Tây). Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Công chánh (1934), được điều vào Nam Bộ công tác. ở đây ông đã viết văn và nghiên cứu văn hoá. Là tác giả và dịch giả của 122 tác phẩm, 250 bài báo và 23 đề tựu cho công trình các bạn bè, Nguyễn Hiến Lê là một tấm gương lao động miệt mài và có khoa học trong lĩnh vực truyền bá văn hoá.

Cuối năm 1999, một con đường nhỏ, dài khoảng 340 mét, rộng 12 mét, nằm ở phường 13, quận Tân Bình, đã vinh dự được mang tên Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn hóa.

Ông sinh ngày thứ Hai, 08-01-1912, tuy nhiên giấy khai sinh ghi muộn hơn ba tháng. Theo âm lịch, ông sinh ngày 20 - 11, nhằm năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu. Nghiên cứu khoa tử vi, ông nhận xét rằng người nào tuổi về phần can trúng nhằm bốn chữ Canh, Tân, Mậu, Kỷ thường có nỗi khổ riêng ẩn giấu nơi lòng. Phải chăng ông đã nghiệm từ chính đời mình? và ông miệt mài viết văn, làm sách có lẽ cũng để cho phần nào vơi đi nỗi niềm ấy?

Ông chào đời tại nhà số 4, ngõ Phất Lộc, Hà Nội, cái ngõ đã đi vào bộ tranh Phố Phái bất hủ của danh họa Bùi Xuân Phái, và Nguyễn Hiến Lê, con người đã cất tiếng khóc chào đời ở khu phố cổ đó, cũng đã đi vào thế giới vĩnh hằng của những danh nhân bất hủ.

Sinh ở ngõ Phất Lộc nên ông lấy hiệu Lộc Đình, và bác Ba của ông chỉ gọi ông bằng hiệu Lộc Đình. Người bác này hiệu Phương Khê, lấy theo tên làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây, cũng là quê nội, nơi ngôi mộ cụ tổ sáu đời của Nguyễn Hiến Lê đã kết theo kiểu "bút gối sau đầu". Các thầy địa lý bảo vì vậy con cháu tuy học giỏi nhưng thi cử lận đận. Hư thực thế nào chẳng biết, có điều ông nội Nguyễn Hiến Lê chỉ đỗ Tú tài.

Ông Tú có bốn con trai. Con thứ hai tên Cổn, hiệu Đạo Quýnh, học giỏi, không đi thi, làm hương sư dạy học trong làng. Cũng học giỏi mà ghét thi cử còn có người con cả, tên Nhuận, hiệu Tùng Hương, không chịu lấy vợ, gia nhập phong trào Đông kinh Nghĩa thục, rồi trốn qua Trung Quốc theo nhà cách mạng Phan Bội Châu, bặt luôn tin tức. Con thứ ba tên Côn, hiệu Phương Khê, văn chương thi phú giỏi, nhưng rớt một khóa thi Hương thì bỏ luôn, gia nhập Đông kinh Nghĩa thục, cưới vợ là cô Năm, con gái nhà cách mạng Lương Văn Can, thủ trưởng Nghĩa thục.

Khi Nghĩa thục bị thực dân Pháp đàn áp ở Hà Nội, ông Phương Khê thoát vào Nam. Sau này viết về Đông kinh Nghĩa thục (1956) Nguyễn Hiến Lê đã không giấu tình cảm của ông đối với hai người bác đáng kính.

Thân phụ Nguyễn Hiến Lê là con út, tên Bí, hiệu Đặc Như, có chút tính nghệ sĩ, ham chơi, học kém hơn các anh, dạy con rất nghiêm khắc. Nguyễn Hiến Lê là trưởng nam, sau ông còn một em trai, hai em gái. Trước ngày Nguyễn Hiến Lê chào đời, ông Đặc Như nằm mộng, thấy cụ già râu tóc bạc phơ, chống gậy đến trao cho quả lê, vì thế đặt tên con là Hiến Lê (hiến tặng quả lê). Mẹ Nguyễn Hiến Lê tên Sâm, sớm mồ côi cha, mẹ bà làm lược nuôi con. Bà Sâm không biết chữ, rất đảm đang, biết dạy con. Bà và người anh chồng (ông Phương Khê) đã sớm ảnh hưởng rất nhiều đối với sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê sau này.

Nguyễn Hiến Lê lên mười thì cha mất sớm, ba mươi bốn tuổi. Nguyễn Hiến Lê đang học lớp Dự bị (Préparatoire) trường Yên Phụ, sức học trung bình. Cảnh nhà khó khăn, mẹ ông đầu tắt mặt tối buôn bán trái cây ở chợ Đồng Xuân, Hà Nội, nhẫn nại nuôi bốn con nhỏ dại và mẹ già. Trên tạp chí Mai số 29, ngày 10-9-1961, Nguyễn Hiến Lê không giấu giếm cái nghèo của mẹ con ông: "Tôi sinh trong một gia đình nghèo, thường bị họ hàng khinh rẻ, ức hiếp, lắm lúc chúng tôi tủi nhục đến rớt nước mắt."(1)

Thiếu người kèm cặp, Nguyễn Hiến Lê lêu lổng, Ở lại hai năm rưỡi ở lớp Dự bị mới lên nổi lớp Sơ đẳng. Từ lớp Nhì (cours Moyen) bắt đầu chăm học, rồi đứng đầu lớp Nhất (cours Supérieur). Cậu học trò giỏi đó đã vượt qua những ngày đói lạnh ấu thơ như thế nào? Trên tạp chí Mai, số 39, ngày 10-02-1962, Nguyễn Hiến Lê tâm sự: "Tôi đã qua cái cảnh, buổi sáng rét căm căm, gió bấc thổi lồng lộng, bận có hai cái áo mỏng, đi mua một củ khoai lang một trinh hoặc một khúc khoai mì một xu rồi đi chân đất dưới mưa phùn để tới trường cách nhà trên hai cây số, ngồi học ba bốn giờ rồi lại đi bộ về nhà. Có lúc đói quá, lạnh quá, không nghe được lời giảng của thầy nữa. Giá hồi đó tôi có thêm một xu mỗi ngày để ăn và vài ba tháng có thêm được vài hào để mua sách ..."(2).

Năm 1925, Nguyễn Hiến Lê thi vô trường Bưởi (Collège du Protectorat), nhưng rớt; năm sau đậu. Học tới đệ Tứ niên, thường nhất lớp. ở trường Bưởi, ông được học với các bậc thầy tên tuổi đáng kính như: Dương Quảng Hàm, tác giả Việt Nam Văn học Sử yếu, Việt Nam Thi văn Hợp tuyển; Thẩm Quỳnh, dịch giả Kinh Thư; Nguyễn Gia Tường, anh của danh họa Nguyễn Gia Trí... Lần lượt, Nguyễn Hiến Lê thi đậu Cao đẳng Tiểu học (Diplôme d'Etudes primaires supérieures franco indigène); thi vào trường Cao đẳng Công chánh đậu thủ khoa, được học nội trú và hàng tháng lãnh sáu đồng rưỡi học bổng. Thi tốt nghiệp tháng 6-1934, đậu hạng sáu. Tháng 10, được bổ vào làm việc trong Nam. Sau này, khoảng tháng 02-1944 (tháng Giêng Giáp Thân), ông có trở ra Bắc thi vô ngạch kỹ sư công chánh, nhưng không đậu. Sở Thủy lợi ở Long Xuyên giao ông công tác đo mực nước ở miền Tây.

Làm xong việc, ông còn rất nhiều thì giờ rảnh. Không biết làm chi cho hết ngày, ông phải tìm đủ mọi sách để đọc, chép nhật ký, viết hồi ký cho đỡ nhớ quê nhà miền Bắc xa xôi. Ông kể: "Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng. "Viết hồi ký để ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật ký để ghi lại cái vui hiện tại (...). "Tôi cứ nhớ đâu chép đó, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng chẳng sửa, viết có khi quên giờ giấc, và đặt cây bút xuống, nhìn lên bờ thì làng xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng."(3).

Đọc sách và viết say mê như vậy vẫn dư thời gian, ông xoay ra tự học chữ Hán. Lúc nhỏ ông được cha dạy vỡ lòng một ít, chừng năm rưỡi. Hè 1928, ông vừa học xong năm thứ Nhất trường Bưởi, được mẹ đưa về quê nội ở Phương Khê học chữ Hán với bác Hai. Ông học hai kỳ hè, mỗi kỳ khoảng hai tháng, mỗi ngày được bác kèm cho chừng một giờ.

Cuối đời, khi đã nổi danh là dịch giả uy tín, trong số trên một trăm hai mươi đầu sách, có trên hai mươi công trình giá trị viết riêng về văn, triết, sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê không khỏi chạnh lòng nghĩ nhớ đến bà mẹ quê mùa mù chữ của mình: "Ngay năm đầu tôi học trường Bưởi, mẹ tôi đã có một quyết định, khiến đời tôi sau này theo một hướng mà chính người và các bác tôi không ai có thể ngờ được. Ngày nay càng nghĩ lại tôi càng thấy cái công lớn của người và càng không hiểu đã có gì xui khiến cho người nảy ra quyết định đó."(4).

Tốt nghiệp Cao đẳng Công chánh (tháng 6-1934), trong suốt năm tháng chờ được bổ nhiệm công tác, ông tự học chữ Hán chứ không về làng Phương Khê nữa vì bác Hai đã qua đời: "Mỗi ngày, buổi chiều, tôi lại Thư viện Trung ương ở đường Trường Thi, mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh mới xuất bản hai năm trước (1932) rồi bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và từ ngữ nào mà tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì tôi chép lại trong một tập vở, mỗi ngày chép độ ba bốn chục từ; tôi lại mượn cuốn Grammaire Chinoise của Cordier cũng chép lại những điều quan trọng. Tôi ở thư viện từ ba đến năm, sáu giờ chiều. Tối hôm đó và sáng hôm sau, tôi học hết những trang ghi đó; rồi chiều lại ra thư viện chép bài học sau. Mỗi tuần tôi nghỉ một ngày để ôn lại những bài trong tuần..."(5).

Sau ba tháng, học được chừng ba ngàn từ, ông mượn được bộ Tam Quốc chí in thạch bản, có lời bình của Kim Thánh Thán. Vì đã biết cốt chuyện rồi, ông đọc không quá khó, lúc đầu chậm, sau quen, và rất thích lời bình của Kim. Đọc vừa xong Tam Quốc chí ông nhận được giấy bổ vào Nam công tác.

Năm 1937 (hay 1938?), ông về Sài Gòn làm việc. Mỗi ngày rảnh được buổi tối và mỗi tuần rảnh được cả ngày Chủ nhật. Không biết nhậu, ghét đánh bài, chẳng thích đánh cờ, học đàn vài tháng thì bỏ, không ưa tụ tập bạn bè tán gẫu; làm sao cho qua hết giờ nhàn rỗi? Chỉ còn cách tự học và đọc sách mà thôi. Ông luôn luôn đọc sách với cây viết chì. Chỗ nào hay ông đánh dấu + ở lề; chỗ dở đánh dấu –. Các ý quan trọng thì ghi tóm tắt kèm với số trang; mà ghi ngay ở các trang bỏ trắng ở đầu hay cuối sách (page de garde), giống như làm index hay mục lục chi tiết cho riêng ông tham khảo khi cần.

Sau 1945 , ông bỏ luôn nghề công chức, về làng Tân Thạnh, ở khoảng giữa Hồng Ngự và Cao Lãnh, học đông y và chữ Hán với bác Ba Phương Khê (tháng 10-1945). Năm 1950, nể lời bạn đã ba lần khẩn khoản mời, ông ra dạy học tại trường trung học công lập Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, dạy đủ các môn từ khoa học tới sinh ngữ. Lúc này ông bắt đầu viết sách. Tổ tiên ông hai bên nội ngoại đều không ai viết văn. Bản thân ông lúc đầu lại vào ngành kỹ thuật. Trước năm 1950 ông không có ý định viết sách, không tính tới chuyện sống hoàn toàn bằng nghề văn. Tác phẩm đầu tiên được xuất bản là Tổ chức công việc theo khoa học.

Dạy ba niên khóa, ông xin thôi và đơn được chấp thuận (tháng 9-1953). Sau này về Sài Gòn, được một số trường mời đến dạy, ông cương quyết từ chối, vì muốn dành hết thời giờ cho việc tự học, biên khảo, dịch thuật, nghiên cứu... Không làm nhà giáo trên bục giảng, ông vẫn là nhà giáo dục có tâm huyết và lương tri. Một số sách do ông soạn hoặc dịch đã hướng dẫn nhiều người trên đường học vấn, như: Bí quyết thi đậu các bằng cấp trung học; Kim chỉ nam của học sinh; Luyện văn; Muốn giỏi toán hình học phẳng; Muốn giỏi toán hình học không gian; Muốn giỏi toán đại số; Tự học một nhu cầu thời đại, v.v...

Nặng lòng với giáo dục, năm 1962 ông viết loạt năm bài Cải tổ nền giáo dục Việt Nam.

Năm 1972, ba bài Nguy cơ xuất não bàn biện pháp giữ nhân tài du học nước ngoài về. Tất cả đều đăng tạp chí Bách khoa. Năm 1961 trên Bách khoa, và năm 1966 trên Tin văn, ông kịch liệt đả kích Bộ Giáo dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở đại học. Ngoài ra, ông còn hàng trăm đề tài giáo dục khác mà từ đầu những năm 50 cho tới 1975, đã đăng các báo: Bách khoa; Đại học; Giáo dục phổ thông; Mai; Tân văn; Tin văn; Văn; Văn hóa nguyệt san, v.v...

Nguyễn Hiến Lê dịch nhiều thể loại sách, nghiên cứu, khoa học, văn chương... tiếng Pháp, tiếng Anh, và đặc biệt là chữ Hán. Bản dịch tiếng Pháp đầu tay của ông là Huấn luyện tình cảm (của P. Félix Thomas); bản dịch tiếng Anh đầu tay là Đắc nhân tâm (của Dale Carnegie). Yêu mến và sành tiếng Việt, giỏi cả Hán, Pháp, Anh, ở cương vị một người dịch, ông quan niệm: "... tôi nghĩ rằng văn thơ cũng như nhạc, dịch một bài văn, một bài thơ, cũng như diễn một bản nhạc, cũng là làm công việc sáng tạo mặc dầu dịch rất sát không thêm bớt. Dịch giả – nếu có tài – cũng là một nghệ sĩ, và mỗi bản dịch cũng là một nghệ phẩm. Không một bản dịch nào đúng hẳn với nguyên tác; bản dịch nào cũng mang ít nhiều cá tính, tài năng của người dịch, tinh thần của ngôn ngữ người dịch, cũng để lộ tâm tư của người dịch, cái không khí của thời đại người dịch."(6).

Đầu năm 1971, tính theo tuổi ta thì ông sắp vào cái ngưỡng mà Đỗ Phủ gọi là cổ lai hi. Nhà thơ Bàng Bá Lân hỏi xem ông đã định gác bút nghỉ viết chưa. Thư ông trả lời: "Viết đều đều trên hai chục năm rồi, tôi muốn nghỉ lắm chứ, nhưng còn chiến tranh thì không thể nghỉ được (...) Còn chiến tranh thì làm sao vui được? Chẳng những việc nước không yên mà việc nhà của chúng ta cũng không yên, không thể quyết định một chút gì trong tương lai cả, ngay đến đời sống của mình cũng không có gì bảo đảm. Sở dĩ tôi phải cặm cụi viết một phần lớn là để tạm quên những ưu tư đó đi"(7).

Đối với Nguyễn Hiến Lê, ngoài ý chí miệt mài học để viết và viết không mệt mỏi để học, thì độc giả là quan trọng, kỳ dư danh vọng hay thế quyền không hề có chỗ trong tâm tưởng. Chính quyền Sài Gòn, Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu, ba lần mời ông làm giám khảo cuộc thi văn chương toàn quốc, mời vào ủy ban Dịch thuật, và ủy ban Điển chế Văn tự của Bộ Văn hóa, vào Hội đồng Giáo dục Toàn quốc, ông đều nhất quyết từ khước. Năm 1973, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa (Sài Gòn) muốn trao tặng ông Giải Tuyên dương Sự nghiệp Văn chương - Học thuật - Mỹ thuật, ông cũng từ chối. Mãi mãi ông vẫn giữ đúng vị trí một nhà giáo dục, một nhà văn hóa độc lập, thanh cao, tự trọng.

Ông thổ lộ: "Soạn sách, tôi chỉ nhắm mục đích: tự học và giúp người khác tự học. Tôi nghĩ đến cái lợi của độc giả trước hết, chẳng hề tự cho mình có "sứ mạng" gì cả, mà cũng không hề mong được nổi tiếng (...). Có thích vấn đề nào thì tôi mới viết. Thấy vui trong khi viết, bấy nhiêu đủ cho tôi rồi."(8).

Ông viết và dịch đủ loại: giáo dục, quản trị, kinh tế, chính trị, sách học làm người, ngữ học, văn học và lịch sử thế giới, tiểu truyện danh nhân, du ký, hồi ký, bình văn điểm sách... Chẳng riêng những sách và bài báo chuyên khảo về tiếng Việt, đọc văn ông, người ta cảm thấy toát ra lòng yêu mến tiếng Việt thiết tha, và sự trân trọng chăm chút để gìn giữ và phát huy tính nhuần nhụy, trong sáng của tiếng Việt.

Có lẽ bên cạnh những thể loại đa dạng thì quan trọng hơn hết vẫn là Trung Quốc học (văn chương, lịch sử, triết học). Đây là lĩnh vực mà Nguyễn Hiến Lê có nhiều đóng góp ý nghĩa cho nền tảng nghiên cứu Trung Quốc học ở Việt Nam qua hai mươi hai công trình tiêu biểu như sau: Chiến quốc sách; Cổ văn Trung Quốc; Đại cương triết học Trung Quốc; Đại cương văn học sử Trung Quốc; Hàn Phi Tử; Kinh Dịch: đạo của người quân tử; Khổng Tử; Lão Tử Đạo đức kinh; Lịch sử văn minh Trung Quốc; Liệt Tử và Dương Tử; Luận ngữ; Mạnh Tử; Mặc học; Nhà giáo họ Khổng; Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa; Nho giáo: một triết lý chính trị; Sử ký Tư Mã Thiên; Sử Trung Quốc; Tô Đông Pha; Trang Tử Nam Hoa kinh; Tuân Tử; Văn học Trung Quốc hiện đại.

Cho tới năm 1975, ông xuất bản được một trăm tác phẩm. Từ 1975 tới ngày mất, hoàn thành thêm hai mươi hai công trình nữa. Viết khoảng hai trăm năm mươi bài báo, mà khoảng một nửa trong số đó vẫn chưa gom lại in thành sách. Đề tựa cho hai mươi ba tác phẩm về biên khảo, thơ, tùy bút... mà hầu như bài tựa nào cũng được khen là tài tình. Mười chín người vinh dự được ông đề tựa tác phẩm là: Bàng Bá Lân, Châu Hải Kỳ, Cung Duy Độ, Đỗ Hồng Ngọc, Đông Hồ, Đông Xuyên (3 lần), Hoàng Xuân Việt, Huy Lực, Huỳnh Phan, Lam Giang, Nguyễn Đình Tư, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Hữu Ngư (tức Nguyễn Ngu ý), Nguyễn Hữu Phiếm (2 lần), Nguyễn Văn Hầu, Phạm Phú Hoài Mai, Toan ánh, Trần Thúc Linh (2 lần), Võ Phiến.

Dường như thần thoại kể rằng, xưa kia có một loài linh điểu, khi sắp giã từ thế gian này, những tiếng hót sau cùng của chim lại là tiếng hót ngọt nhất, hay nhất mà chim dồn hết tinh huyết và thần lực ra thi thố, để tận hiến cuộc đời lần cuối. Những tác phẩm cuối đời của Nguyễn Hiến Lê có lẽ chẳng khác gì tiếng chim linh thần thoại lãng mạn ấy. Thực vậy, trong mười năm sau cùng (1975-1984), sức khoẻ ông càng cạn kiệt vì tuổi tác và tật bệnh, thì ngược lại, sách ông viết càng sâu sắc, càng phong phú và giá trị hơn.

Và rồi ông bệnh, mất ngày 22-12-1984 tại Sài Gòn, hỏa táng tại Thủ Đức. Đến nay, hai mươi hai bản thảo để lại đã in gần hết! Những sách đã in trước 1975 vẫn tiếp tục in lại đều đặn. Một năm có khi hai hay ba nhan đề cũ và mới cùng được ấn hành. Nguyễn Hiến Lê có cái vinh dự được là tác gia của ba thế hệ: thế hệ những người đồng tuổi ông; thế hệ con cái những người đó, kể cả lớp học trò cũ của ông; và thế hệ trẻ hôm nay đang cắp sách ở trung học, đại học, hay vừa rời ghế giảng đường, tập tễnh bước chân vào chốn trường đời.

Xưa nay không hiếm những tác giả mà người đọc chỉ nên đứng xa xa để chime ngưỡng, vì họ sống không đúng như họ viết. Đức Lão Tử dạy: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri (Người biết chẳng nói, người nói chẳng biết). Trộm nghĩ, với Nguyễn Hiến Lê, câu ấy có thể sửa lại là: Tri giả năng ngôn, ngôn giả năng hành (Người biết hay nói, người nói hay làm). Ngày xưa, đức Khổng Tử có lần than phiền: "Trước kia, nghe ai nói, ta tin rằng đức hạnh của họ hợp với lời của họ. Ngày nay thì ta đâm ngờ, phải quan sát xem hành động của họ có đúng với lời họ nói không." (Luận ngữ, Công Dã Tràng, 9). Với Nguyễn Hiến Lê, đức Khổng thánh, bậc Vạn thế Sư biểu, có thể không cần phải giữ thái độ thận trọng, dè dặt xét nét như vậy.

Quả thực, ai có dịp gần gũi ông nhiều, đọc sách của ông, cũng đều thừa nhận rằng Nguyễn Hiến Lê biết sao thì nói đúng, viết đúng như đã biết, và cũng làm đúng, sống đúng như chính ông đã nói đã viết.

Khoảng trước năm 1945, nhân khi đọc xong một vài bản thảo của ông, bác Ba Phương Khê tặng ông câu đối:
Học bản tu thân, thân tức quốc;
Nhân năng bạt tục, tục nhi tiên.
(Học gốc ở tu thân, thân mình là nước;
Người tư cách bạt tục, tuy tục mà tiên.)

Bản thân Nguyễn Hiến Lê vào khoảng năm 1946 hay 1947 cũng làm câu đối:
Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu;
Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
(Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có;
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.)

Cả hai câu đối đó, ngẫm cho cùng, đều phản ánh rất đúng cốt cách nho phong, chí hướng bạt tục, cuộc đời giản dị, và sự nghiệp văn hóa không nhỏ của Nguyễn Hiến Lê đối với dân tộc Việt Nam. Suốt cuộc đời cầm bút trong sang như viên ngọc không chút tì vết, Nguyễn Hiến Lê chưa một lần tự gán cho bản thân bốn chữ "Văn dĩ tải đạo", nhưng đến nay những ai đọc ông có lẽ đều tâm phục và ngưỡng kính cảm nhận rằng con người ấy quả thực đã hiến trọn đời mình để chở chuyên đạo lý.

Đời ông bảy mươi ba năm, từ ấu thơ cho đến khi quay lưng đi vào cõi vĩnh hằng, đã kinh qua biết bao nỗi thăng trầm bi tráng của lịch sử một đất nước chiến tranh ly loạn triền miên. Nhưng ông đã tự chọn cho mình một con đường tu thân, tu đức, trau giồi học vấn không ngừng. Ông miệt mài đem trí tuệ mẫn tiệp, sức học uyên bác, lương tri và tâm huyết... để bằng nghị lực phi thường lướt qua những bệnh tật đeo đẳng tấm thân mảnh khảnh, và đã lặng lẽ nuốt nỗi khổ riêng vào tận đáy lòng, để cho những dòng chữ lời văn của ông mãi mãi chỉ tinh tuyền là hương thơm vị ngọt và vẻ mỹ miều của một tình yêu quê hương đằm thắm và một lòng nhân ái kín đáo./.

Lê Anh Dũng

Thứ Ba, 24 tháng 6, 2008

Bài thơ chưa đặt tên


Tương tư tóc tím mấy mùa
Chiều buồn nhạt nắng hoa mua nhạt màu
Em về nửa bóng canh thâu
Còn anh nửa bóng bạc đầu đợi mong…

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2008

Nhà thơ Nguyễn Phan Hách: Vướng víu tình thơ

Thi sĩ Xuân Diệu có một câu thơ rất hay về tình yêu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.

Ôi chao, tình yêu là như vậy đó. Thật khó lý giải. Đối với những người bình thường còn khó thế, đối với giới văn nghệ sỹ, chắc còn khó hơn nữa. Tình yêu đối với họ có lẽ thường gắn với tình nghệ sỹ - tình thơ chăng?

Nhà thơ Nguyễn Phan Hách nổi tiếng với bài thơ "Làng quan họ" (nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo đã phổ nhạc bài này) cũng nằm trong số những người như vậy. Trong số những mối tình thơ của ông, tôi chú ý đến mối tình với người con gái quan họ Bắc Ninh. Tôi đã từng có ý định viết một cái gì đó về vùng đất giàu truyền thống văn hóa vào loại bậc nhất cả nước này, song chưa thể viết nổi một cái gì về nó cả. Phải chăng vì thiếu một buổi chiều, thiếu một chút nắng nhạt hay một chút gió hiu hiu chăng?

Bước đi mỗi bước một dừng
Đường về quan họ xem chừng còn xa
Vừng ô bóng đã xế tà
Phải chăng dan díu hóa ra nỗi này...

---------------------------------------------------------------
Tình đầu và bút danh Nguyễn Phan Hách


Rất ngạc nhiên thú vị là bài thơ "Hoa sữa" không phải là bài thơ nhà thơ Nguyễn Phan Hách viết cho mối tình đầu tiên, và viết khi ông đang ở tuổi mười lăm, hay mười tám, đôi mươi như nhiều người vẫn nghĩ.


Người yêu đầu tiên, mối tình thơ đầu tiên trong đời thi sỹ Nguyễn Phan Hách là với một cô học trò vào tuổi 16 trăng viên mãn. Lúc đó, Nguyễn Phan Hách chưa phải là thi sỹ, cũng chưa thành nhà văn, học xong lớp 7/10 hồi ấy rồi học sư phạm 10+2, Phan Hách được đi dạy cấp 2.

Ông nhớ rất rõ, ngôi trường đầu tiên ông được cử đến làm nghề dạy học là trường Phương Sơn của huyện Lục Nam (Hà Bắc), một huyện trung du lần đầu tiên có trường cấp 2. Trong lớp của thầy giáo trẻ lúc ấy có một cô học trò vô cùng xinh đẹp. Cho đến bây giờ đã hơn 65 tuổi, đi hết mọi cung đường Nam Bắc trong chiều dài cuộc đời, Nguyễn Phan Hách thừa nhận rằng chưa gặp thiếu nữ nào đẹp đến như vậy.


Cô bé là em gái diễn viên điện ảnh N.L. nổi tiếng lúc bấy giờ, vừa chớm tuổi 16, đã thành thiếu nữ với vẻ đẹp mê hồn khiến cho thầy giáo lần gặp đầu tiên đã ôm ấp mộng tình. Từ đấy, ngoài những giờ lên lớp, thầy giáo mỗi ngày làm một bài thơ tình gửi cho học trò. Còn học trò cũng một ngày viết một bức thư gửi cho thầy giáo mà mình thầm thương trộm nhớ.


Những bài thơ tình đầu tiên viết trong cơn say tình yêu mới ngô nghê và buồn cười làm sao: "Bây giờ chẳng phải mùa xuân/ Mà sao hạt giống đâm thân nảy chồi/ Em ơi rất dễ hiểu thôi/ Bởi em là cả bầu trời mùa xuân/ Mầm yêu trong giá trắng ngần/ Tự tim anh đó lớn dần mãi thôi/ Anh không cưỡng lại nữa rồi/ Còn em vun xới dập vùi tuỳ em/ Ôi lòng ta lúc lửa nhen/ Lửa ơi, lửa hỡi, cháy tim ta rồi/ Bâng khuâng hết đứng lại ngồi/ Em ơi, em hỡi trả lời giùm anh".


Cứ thế chàng trai thì gửi thơ, cô gái thì gửi thư, ngày nào sau giờ lên lớp họ cũng lén trao cho nhau những bức tình thơ. Cái tên Nguyễn Phan Hách cũng bắt đầu xuất hiện từ đó.


Thực ra tên khai sinh của ông là Nguyễn Xuân Hách, còn cô thiếu nữ kia là Phan.T.B. cho nên lấy họ của người yêu ghép vào họ của mình để tình yêu thêm khăng khít. Nhưng tình yêu vừa chớm giữa hai người thì bất trắc đã xảy ra.


Vốn là vì yêu cô gái quá mà Nguyễn Phan Hách đã viết một truyện ký "Đội thanh niên xung phong làm đường và cô P.T.B". Thật ra truyện hư cấu hoàn toàn và lấy hình mẫu cô học trò P.T.B làm nhân vật chính trong truyện ngắn đó. Biến cô học trò thành một cô thanh niên xung phong, lập được nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, và trở thành một anh hùng, một biểu tượng đẹp đẽ của những cô gái thanh niên xung phong. Trong khi đó ở ngoài đời thực, cô học trò P.T.B. lý lịch gia đình bị liệt vào “loại đen” vì bố đi Nam.


Sau khi truyện ký đăng ở trang nhất Báo TP, Đài Phát thanh đưa lên phát sóng và đọc liên tục một thời gian, Ủy ban nhân dân xã nơi cô P.T.B. ở và huyện Lục Nam đã viết đơn lên kiện ở Báo TP là thầy giáo Nguyễn Phan Hách đã ca ngợi một cô gái nhà lý lịch xấu đưa lên làm biểu tượng đẹp đẽ về thanh niên xung phong. Viết như vậy dân mất lòng tin vào báo chí cách mạng, mất niềm tin vào những bài viết xưa nay vẫn tuyên truyền ở trên báo, đài.


Phòng Giáo dục đã gọi Nguyễn Phan Hách lên kiểm điểm rất nặng và Nguyễn Phan Hách suýt bị đuổi việc. Nhận án kỷ luật, ông được điều chuyển về dạy học ở một trường miền núi cách trường cũ 30km. Nguyễn Phan Hách chuyển trường trong một tâm trạng vô cùng buồn bã.


Thế rồi, trong một buổi chiều, đang lững thững đi dạo trước cổng trường, Nguyễn Phan Hách bỗng nhìn thấy một dáng hình người con gái rất xinh đẹp đạp xe từ xa tới. Không tin nổi vào mắt mình, cô học trò P.T.B. đã đạp xe 30km để đi tìm thầy.


Trong một buổi chiều mùa đông trống vắng và quạnh hiu, họ gặp nhau và cô gái đã khóc. Cô nói: "Em đạp xe đi tìm thầy rất nhiều lần, may mà lần này được gặp".


Sau cuộc gặp gỡ đó, Nguyễn Phan Hách sáng tác một bài thơ ca ngợi về công trình thủy điện Lục Nam mang ánh sáng về cho nhân dân lúc bấy giờ. Bài thơ có nội dung rất tốt, đã được đọc tuyên truyền ở địa phương và tại trường mà ông đang giảng dạy. Sau đó bài thơ được gửi lên Báo Văn nghệ ký tên: Nguyễn Phan Hách và P.T.B.


Nhà thơ Trinh Đường lúc đó đang biên tập cho Báo đã gửi thư cho Phan Hách xin phép chỉ lấy mỗi tên P.T.B để đăng vào chùm thơ của các tác giả nữ nhân ngày 8-3. Nguyễn Phan Hách đồng ý.


Bài thơ đăng lên, lại có một cuộc họp kiểm điểm kỷ luật Nguyễn Phan Hách tại nơi ông đang giảng dạy về việc thơ của mình nhưng lại tùy tiện đưa tên người khác có thành phần gia đình không tốt vào làm tác giả là có dụng ý gì. Tình yêu đầu, mối tình thơ đẹp và mong manh rồi cũng tan biến vào hư vô.


Sau hai vụ án kỷ luật khá nặng, Nguyễn Phan Hách quyết tâm chuyển ngành, không đi dạy nữa mà về Ty Văn hóa Hà Bắc công tác. Nguyễn Phan Hách có 4 câu thơ kỷ niệm mối tình đầu: "Tên em cùng với tên anh/ Yêu nhau đem đặt bút danh quen rồi/ Oái oăm biết mấy sự đời/ Tên thì lấy được còn người thì không".


Một bóng hình cho "Hoa sữa" và "Làng quan họ"


Tại Ty Văn hóa Hà Bắc có 4 đoàn văn công, thi sỹ mộng mơ Nguyễn Phan Hách lọt vào một thiên đường với nhiều tiên nữ. Ông thường đi cùng các đoàn văn công biểu diễn phục vụ bộ đội, trận địa, hợp tác xã. Mỗi một lần đến một đơn vị để biểu diễn, nhiệm vụ của Nguyễn Phan Hách phải sáng tác một bài thơ mới có hình bóng của đơn vị ấy, miền đất ấy để buổi tối cho diễn viên ngâm và biểu diễn luôn.


Công việc đã se duyên Nguyễn Phan Hách với một cô bé tên là P.D. hát quan họ tuyệt hay, thân hình mảnh mai với chiếc nón ba tầm quyến rũ và thường ngâm những bài thơ của ông. Lúc này Nguyễn Phan Hách ngoài 20 tuổi, cô bé kia mới chỉ 16 tuổi, vừa trúng tuyển vào đoàn. Ở đoàn văn công, mọi người nhìn thấy tình cảm của Nguyễn Phan Hách nên đã chế hai người một đôi. "P.D có nhớ ở đâu/ Chúng mình hai đứa lần đầu gặp nhau/ Bồi hồi nửa lạ nửa quen/ Đã yêu từ mái tóc mềm đẹp xinh/ Đã khao khát nhớ dáng hình/ Người ta đã chế chúng mình lấy nhau".


Sau đó, Nguyễn Phan Hách được cử đi học lớp sáng tác ở Trường Bồi dưỡng viết văn Quảng Bá của Hội Nhà Văn. P.D. được cử đi học tại Trường Văn hóa của Bộ Văn hóa. Hai anh em thân nhau lắm, thường đạp xe đưa nhau đi chơi ở hồ Thiền Quang bên con phố Nguyễn Du ngập tràn hoa sữa.


Trong không gian phảng phất mùi hoa sữa, trong sương chiều bảng lảng nơi sóng hồ Thiền Quang, trong cái chớm lạnh man mác của cuối thu, đầu đông, Nguyễn Phan Hách đọc thơ cho cô gái nghe, còn cô gái dạy chàng hát quan họ, và hát cho chàng nghe.


Bài thơ "Làng quan họ" ra đời rất nhanh để tặng người yêu thay lời tỏ tình. Sau khi bài thơ đăng ở Báo Văn nghệ, chàng thi sỹ đa tình đã mua vội một tờ báo và tức tốc đạp xe đến trường người yêu đang học để tặng nàng. Buồn thay buổi chiều hôm đó, vừa thấy bóng chàng thi sỹ, cô gái quan họ kia trốn mất tăm để lại chàng thi sỹ với bài thơ tình chưa ráo mực và một nỗi đau tan nát.


Sau này, kết thúc khóa học, họ trở về đơn vị. Một ngày mưa thu, khi trái tim đa tình đã bình yên trở lại, Phan Hách đã gặp lại cô diễn viên kia trong ngôi làng ngoại ô ở tỉnh Bắc Ninh khi đoàn văn công đang dựng tiết mục. Họ đứng trên bậc đá rêu ướt rượt ngõ nhỏ, dưới cành sấu thấp la đà. Sấu chín vàng đầu thu rủ sát môi, kề răng cắn là được.


Cô gái quan họ cầm chiếc nón ba tầm che chung cho hai người. Lúc này cô mới nói rõ lý do vì sao hôm đó trốn chàng. "Em mới 16 tuổi, chưa dám nghĩ đến chuyện yêu đương".


Cuộc chia tay buồn bã. Một chàng trai đã đến tuổi lập gia đình, một cô gái chớm bước vào tuổi thiếu nữ... Giữa họ là chút gì đó man mác, mơ hồ, day dứt của một tình yêu đơn phương chưa đủ chín... và thế là đành xa nhau. Mối tình ấy in vết tâm hồn nhà thơ những câu thơ đầu tiên: "Nhớ về em năm tháng thơ ngây/ Trái sấu rủ tầm hai đứa/ Nón che chung trời mưa lổ đổ/ Đôi môi hương sấu dịu chua".


Bài thơ in ở Báo Văn nghệ. Nhà thơ Xuân Diệu gặp Nguyễn Phan Hách cười rằng: Người ốm thì người ta nói là môi chua. Cậu thì đi ca ngợi môi người yêu chua". Bẵng đi hơn chục năm sau, khi đã ngoại tứ tuần, đã yên bề gia thất và hạnh phúc viên mãn với tổ ấm gia đình, con cái đề huề, thì mỗi lần đi làm về trên con phố Nguyễn Du đầy hoa sữa, ghé qua hồ Thiền Quang, Nguyễn Phan Hách bùi ngùi xúc động nhớ về cô thiếu nữ bé nhỏ trong tình thơ năm xưa.


Một hôm, cũng vào chiều thu, khi hoa sữa ngậm sương nồng lên mùi hương da diết, nhà thơ đã một mình trở lại con đường cũ, đi lên lối cũ và ngồi vào chiếc ghế đá xưa. Chính lúc này, trong trái tim đầy đặn những buồn vui của thời gian và tuổi trẻ một lần nữa lại rung lên tha thiết.


Những vần thơ của bài thơ "Hoa sữa" run rẩy hiện hình: "Tuổi mười lăm em lớn từng ngày/ Một buổi sớm em bỗng thành thiếu nữ/ Hôm ấy là mùa thu anh vẫn nhớ/ Hoa sữa thơm ngây ngất quanh hồ./ Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu/ Hương hoa sữa tan trong áo em và mái tóc/ Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt/ Vậy mà tan trong sương gió mong manh...".


Bài thơ viết xong cũng chỉ để cất vào ký ức bởi vì theo nhà thơ Nguyễn Phan Hách thì hồi đó, đất nước vừa bước qua chiến tranh, những bài thơ về tình yêu đôi lứa rất ít khi dùng mà nhường cho những bài thơ tuyên truyền công cuộc sản xuất và xây dựng.


Thế rồi chính nữ sỹ Xuân Quỳnh là người đầu tiên tuyển chọn bài thơ "Hoa sữa" để in trong tập thơ "Tình bạn tình yêu" của NXBGD. Sau đó, Nguyễn Phan Hách mạnh dạn gửi lên Báo Văn nghệ cùng với chùm thơ của ông. Từ đó bài thơ đến với đông đảo người đọc, đặc biệt là lứa tuổi học trò.

Hoa sữa - Tình đầu hay tình cuối


Nguyễn Phan Hách cũng không ngờ duyên phận của bài thơ "Hoa sữa" lại ám ảnh dai dẳng ông như vậy khi về cuối đời, cô gái sinh viên văn khoa Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã vì yêu bài thơ "Hoa sữa" mà tìm đến với ông, trao cho ông tình yêu nồng nàn của tuổi trẻ.


Ông còn nhớ vẫn là một chiều thu, đang ngồi làm việc ở 65 Nguyễn Du, có một cô gái rụt rè gõ cửa phòng xin chữ ký của ông dưới bài thơ "Hoa sữa" và gửi ông bài thơ cô họa lại: "Buổi chiều nay xao xác về thu/ Em ngồi đọc bài thơ Hoa sữa/ Ai hay chính là em trong đó/ Em muốn là nhân vật của bài thơ/ Em đi tìm người thi sỹ mộng mơ/ Cùng viết lại bài thơ tình tan vỡ/ Tình yêu đầu đừng xa cách nữa/ Em đã về hoa sữa lại lên hương".


Trái tim của người thi sỹ đa tình lại run rẩy thêm một lần nữa. Dù cách xa bao nhiêu thế hệ, khoảng cách tuổi tác trở nên vô nghĩa khi chiếc cầu nối trong tình thơ "Hoa sữa" đã dan díu họ lại bên nhau. Nguyễn Phan Hách nói rằng, trong đời thơ của ông, bài "Hoa sữa" có biết bao nhiêu fans hâm mộ, nhưng đến chết ông cũng không dám mơ đến một tình yêu với một cô gái khi ông đã ngoài tuổi 60.


Giờ đây nhà thơ, nhà văn Nguyễn Phan Hách vẫn tiếp tục làm việc ở phố Nguyễn Du. Công việc là niềm vui, thơ ca là những ký ức ngọt ngào và say đắm. Nó mang đến cho ông quá nhiều hạnh phúc và hạnh phúc nào chẳng có vị mặn của nước mắt và chia ly.

Dương Thục Anh (Theo: ANTG cuối tháng)

Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2008

Nghĩ về đổi mới thơ từ trường hợp Hàn Mặc Tử (kỳ 2)


4. Muốn cách tân thơ, trước hết phải đem đến một quan niệm mới về thể loại

Bằng chứng đáng tin cậy nhất của sự sáng tạo đổi mới chính là diện mạo của tác phẩm trong đời sống văn học. Còn quan niệm của nhà thơ về thể loại được phát biểu rải rác ở đâu đó sẽ trở thành tôn chỉ, mục đích sáng tạo của người nghệ sĩ, nếu như quan niệm đó thôi thúc nhà thơ cầm bút để khẳng định nét riêng của mình. Muốn cách tân thơ, nhà thơ cần hình thành cho mình một quan niệm thơ mới mẻ trước đã. Quan niệm về thể loại chẳng mới mẻ gì, thì chẳng bao giờ tác giả tạo được cho thơ ca một khuôn mặt mới.

Với Hàn Mặc Tử, khi sáng tạo, một mặt nhà thơ khai thác những dữ kiện trực tiếp của ý thức cá nhân, mặt khác thi nhân sẽ “quên cả thói quen phân tích của tư duy lô gíc... để cho trực giác của tâm linh trỗi dậy”. Thơ “đưa chúng ta vào một trạng thái tâm lí bất ổn” (Béc-xông). Nhà thơ cố gắng nắm bắt những cảm xúc tột cùng của con người, “những cái trừu tượng đang vận động”. Thơ chợt về với nghệ sĩ ở những giây phút máu cuồng và hồn điên.

Hàn Mặc Tử không giấu những đau thương, thi sĩ cứ muốn ở mãi trong đau thương: Thơ tôi thường huyền diệu (“Cao hứng”), lời thảm thương rền khắp nẻo mơ (“Trút linh hồn”). Hàn Mặc Tử nhận thấy “nhà nghệ sĩ bao giờ cũng điên”. Muốn phát điên, anh ta phải “sống mãnh liệt và đầy đủ”, muốn bay tới địa hạt huyền diệu, anh ta phải “mộng”, phải có trí tưởng tượng dồi dào, đặc biệt phải sành âm nhạc và màu sắc. Nhà thơ muốn đến bến bờ tượng trưng cần “có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao...”

5. Vũ trụ thơ của Hàn Mặc Tử: kì dị và lạ thường

Kết quả của sự cách tân thơ, sau cùng phải đem lại cho người đọc một thế giới nghệ thuật mới, một hình thức mới của cái nhìn nghệ thuật. Không có thế giới nghệ thuật mới lạ thì coi như chưa đổi mới thơ. Vậy, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo ra thế giới nghệ thuật nào?

Trong bài viết “Nghệ thuật là gì?” năm 1935, Hàn Mặc Tử nhấn mạnh: nhà thơ cần có “năng lực mạnh mẽ về tinh thần, thứ năng lực ấy nó làm cho con người thêm hứng khởi đi tìm cái sự lạ”. Hàn Mặc Tử “đi tìm cái sự lạ” “ở chốn xa xăm, thiêng liêng và huyền bí”. Nhà thơ “nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”, thơ Hàn có một nguồn “sáng lạ”, lời thơ và tâm thế của người thơ rất kì dị.

Đọc thơ Hàn Mặc Tử, nhà phê bình Hoài Thanh có cảm nhận mình như lạc vào “cái thế giới kì dị”, “đi trong mờ mờ”, thấy nguồn thơ của thi sĩ nảy nở thật lạ lùng. ““Xuân như ý” có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng”; cảnh vật trong “Máu cuồng và hồn điên” “...không thấy có tí gì giống với cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử (...) trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn.”

Trong cái nhìn nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, cái sự lạ kia biểu hiện như một cảnh thực, thứ hiện thực ảo. Cái sự lạ trong vũ trụ thơ ấy xuất hiện cùng với tâm trạng ngạc nhiên, ngỡ ngàng của chủ thể trữ tình.

Tiếng động sau vùng lau cỏ mọc [5]
Tiếng ca chen lấn từ trong ra...
Áo quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình...
Nụ cười dưới ấy và trên ấy
Không hẹn, đồng nhau nở lẳng lơ...
(“Nụ cười”)

Gió rủ nhau đi trốn cả rồi
Nhỏ to, câu chuyện, ô kìa coi
Trong lau như có điều chi lạ
Hai bóng lung lay thấy cọ mài...
(“Khóm vi lau”)

Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu
Lời nguyện, gẫm xanh như màu huyền diệu
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ

Nhà thơ đi tìm cái lạ chưa đủ, anh ta cần phải chiếm lĩnh cho được cái kì dị. Hai thứ đó đan xen với nhau tạo ra hứng thơ mạnh mẽ và vô tận.

Lời thơ ngậm cứng, không rên rỉ
Và máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội muôn nơi...

Tiếng thông vi vút như van lơn...
Mây buồn vơ vẩn bay đầu non...
Ngây tình, bóng liễu câm không nói
Trong khóm vi lau có tiếng than
(“Trên bờ”)

Tất cả đường thơ mà thi sĩ họ Hàn đi qua, ngay cả “Đường thi” cũng đã trổ ra những ánh khác lạ [6] . Mỹ học thơ Hàn có thể gói gọn trong hai phạm trù thẩm mỹ: kì dị và lạ thường. Thơ Hàn Mặc Tử không bình dị và không đài các. Lối thơ thứ nhất, có tính cách phổ thông, chưa biết đến cái lạ. Lối viết thứ hai thuộc cái thông bệnh của thi sĩ Hán học, nên không thể trở thành cái kì dị được. Thơ Hàn Mặc Tử: kì dị và khác lạ. Kì dị và khác lạ trước hết ở thi ảnh, thi cảm.

Nhà thơ Baudelaire từng hết lời ca ngợi những người tự do, biết: “bay vào những trường sáng sủa và thanh sạch...” (“Lên cao”), tôn vinh “người hiểu được ngôn ngữ của những sự vật câm lặng”. [7] Theo Baudelaire, nguyên tắc mĩ học của thơ ca thuộc về nghệ thuật biểu tượng. ông nhấn mạnh chính “trí tưởng tượng đã dạy cho con người cái ý nghĩa tinh thần của màu sắc, của đường nét, của âm thanh, của mùi hương, từ khởi thuỷ nó đã... tạo ra phép ẩn dụ”. [8] Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy lời thơ cũng đầy ánh sáng. Thi cảm,thi ảnh được “nuôi mãi trong nguồn ánh sáng thiêng liêng”. Thi nhân “say sưa đi trong mơ ước”, “đi đến cõi ước mơ hoàn toàn”, “ọc ra từng búng thơ sáng láng”. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử có vẻ đẹp của một giấc mộng.

Verlaine chủ trương giấc mơ hơn thực tại. Hàn Mặc Tử cũng nói nhiều đến giấc mơ, cảnh chiêm bao, tới thế giới không nhìn thấy. Theo Hàn Mặc Tử, ý thơ nảy sinh từ trời mộng, thơ diễn tả “những tiếng ca của tình cảm, của tưởng tượng, của mơ màng” (“Không nên có luật thơ mới”, “Chiêm bao với sự thật”), thi sĩ bị ánh sáng của chiêm bao vây riết. Theo tôi, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khá tiêu biểu cho khuynh hướng tìm tòi sáng tạo này. Vì rằng, để có được “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Tử đã phải đối thoại âm thầm với tấm bưu ảnh, đối thoại với đối tượng lặng câm, với tình yêu đơn phương vô vọng. Hình thức đối thoại ảo truyền tả được khát vọng được yêu, được sống mãnh liệt của nhà thơ. Nhà thơ phá vỡ thế độc thoại bên trong để tạo vẻ đối thoại ảo. Vẻ huyền ảo xa vời của thôn Vĩ hiện về trong tâm thức đau thương của một hồn thơ cô đơn. Thi sĩ tưởng tượng ra một cố nhân đang mong chờ mình, mời mình về thôn Vĩ. Thi sĩ mơ tiếng gọi thiết tha trìu mến của người thương, ao ước nghe thấy lời chào mời giục giã của cô gái ấy. Thế giới “Đây thôn Vĩ Dạ” tràn đầy ánh sáng, thực ảo chập chờn chuyển hoá lẫn nhau. Con thuyền thơ cứ chảy trôi trong thế giới mộng ảo, trong cõi mơ, con người Huế cũng chìm trong mộng ảo.

Nếu thơ Xuân Diệu đề cập nhiều đến sắc và hương thì thơ Hàn Mặc Tử nói nhiều về âm thanh và ánh sáng. Chỗ mạnh của Hàn Mặc Tử là cảm nhận được ánh sáng và âm điệu của sự vật. Hàn Mặc Tử quan niệm: đời sống bí mật riêng tư của sự vật nằm ở ánh sáng và âm điệu của nó.

Hàn Mặc Tử lạc vào thế giới của cái kì dị và lạ thường, thế giới của âm thanh và ánh sáng lạ. Thế giới ấy có cấu trúc riêng, ý nghĩa riêng, quy luật vận động riêng. Chẳng phải vô cớ Hàn Mặc Tử luôn chú ý tới nắng. Nắng trong thơ thi sĩ họ Hàn trở thành tín hiệu báo mùa:

Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
(“Mùa xuân chín”)

Nắng ửng có vẻ riêng trong cái nhìn xuân tình của tác giả. Nắng ửng không chỉ báo hiệu “bóng xuân sang” mà còn đánh dấu khoảnh khắc: mùa xuân bắt đầu chín. Nắng ửng gắn liền với tâm trạng rạo rực xôn xao ở hồn người. Bài thơ “Mùa xuân chín” đọng lại cái nắng hắt ra từ cõi nhớ. Nắng trong hoài niệm, thứ nắng hoài vọng chín theo sự chín của mùa xuân, tình xuân. Nắng chín dĩ nhiên đẹp, nhưng phảng phất buồn. Đẹp bởi cảnh xuân, tình xuân nồng nàn. Buồn bởi “có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”. Trong tác phẩm “Ngủ với trăng”, nhân vật trữ tình “khao khát trăng gió” và “đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy”. Nắng chang chang đốt lòng người thực ra là hình ảnh phái sinh của kiểu nắng cháy. Nhưng nếu nắng chang chang loang ra dọc bờ sông trắng, thì nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy ở đây lại xuất hiện trong một không gian khá đặc biệt: “trên sóng cành, sóng áo cô gì má đỏ hây hây”. Ngừng, reo, cháy ứng với ba cung bậc tình cảm khác nhau của con người: lặng im, xao xuyến và cuồng si. Ba trạng thái tình cảm ấy đồng nhất với ba cảm xúc sáng tạo. Hoá ra, nắng biểu hiện thi hứng, thi cảm của nhà thơ.

Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử có “tuổi” và có tình. Người ta thường nói: trăng sáng, sao sáng, còn Hàn Mặc Tử lại cảm thấy nắng sao. Nắng reo đã lạ, nắng sao, nắng trong đêm thì lại càng kỳ. Có lẽ thứ nắng ấy chỉ xuất hiện trong thế giới thi ca của Hàn Mặc Tử với một tâm thế trữ tình đặc biệt “buồn trong mộng” (“Buồn ở đây”). Nắng trong thơ Hàn thường gắn với hoài niệm, phảng phất duyên tình: nắng vàng con mắt thấy duyên đâu. Nắng gắn với duyên phận, nắng mang nỗi niềm cô đơn: “không duyên hồ dễ mong theo nắng” (“Duyên kỳ ngộ”). Nắng, thứ ánh sáng đặc biệt trong thơ Hàn, biến ảo theo cường độ nỗi đau, nỗi nhớ. Biên độ nắng không có giới hạn, rộng mở theo không gian xa cách, theo “thế giới ảo huyền”. Nắng ửng làm “khói mơ tan”, nắng dọi làm “bài thơ cháy”. Ngay cả nắng mai cũng “dìu dịu mối sầu vương” (“Duyên kỳ ngộ”).

Nắng là một loại ánh sáng đặc biệt, “ánh sáng của chiêm bao, huyền diệu” (“Chơi giữa mùa trăng”). Nắng trở thành tín hiệu thẩm mỹ, báo hiệu mùa thơ đang chín (“Kêu gọi”). Nắng kích thích trí tưởng tượng của nhà thơ bay vào cõi mơ:

Nắng càng cao lòng ta càng hừng hực
Thơ lên rồi bay quá giải nhàn vân...
(“Duyên kỳ ngộ”)

Ôi chao thơ ngầm bay theo dải nắng
Lộng vào xiêm áo mỏng manh sao...

Sự vận động của Nắng tạo ra thi giới của “cái tột cùng”. Nắng vừa hoá giải đau thương vừa ràng rịt nỗi đau. Nắng được nhìn qua lăng kính của hồn và xác.

Nắng ơi, nắng có lên cao
Làm sao da thịt hồng hào thế kia
(“Duyên kỳ ngộ”)

Nói đến hồn, đến thơ không thể không nhắc tới nắng. Nắng hoà quyện với hồn, với thơ. Nắng và hồn ở trong thơ - cái vũ trụ do Hàn Mặc Tử sáng tạo ra.

Hàn Mặc Tử ít nói đến nắng thu, nắng hè... thi sĩ có ấn tượng nhiều hơn với nắng xuân. Nắng xuân ám ảnh, quấn riết lấy thi sĩ. Xuân trong thi giới của Hàn Mặc Tử cũng khá lạ: “xuân mộng”,”xuân gấm” (“Xuân đầu tiên”) “xuân thơm” (“Nhớ thương”), “xuân lịch sự”. Hình tượng Xuân chẳng qua do con người hoá thân mà thành, nhưng không phải con người trần tục, trần thế mà một người “ngọc”, người của cõi mộng, cao quí thanh sạch (“Cô gái đồng trinh”). Tuổi xuân là Ngọc như ý, tên xuân là Dạ lan hương. Xuân gắn với mơ ước, xuân tắm nắng tươi (“Tiếng vang”), nắng mới.

Ánh sáng trong thơ thi sĩ họ Hàn có hình khối, hương sắc chiếm vị trí quan trọng trong thơ, gần như trở thành đơn vị đo đếm thế giới. Bên cạnh ánh sáng của nắng, Hàn Mặc Tử còn ưa tả ánh sáng của trăng. Hàn Mặc Tử thường tả ánh sáng trong trẻo của trăng rằm. “Trăng (...) tượng trưng cho một mùa ao ước (...) và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán.” (“Chơi giữa mùa trăng”) Trong trăng có hương thơm, có nhạc, có hơi thở và có tình. “Tình thoát ra ở điệu nhạc mênh mang trong bờ bến của chiêm bao.” Trong chiêm bao, trong vùng mộng siêu thời gian, đến gió cũng “phảng phất những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa.” Thế giới ánh sáng thu hẹp ở hình tượng “trăng”. Thế giới trăng, thế giới của những ao ước nhớ thương hợp thành một thể thống nhất: thế giới nghệ thuật.

Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi...

Trăng nằm, thơ mộng, chông chênh và hư huyền quá. Mà lại nằm sóng soải thì thật táo bạo, gợi tình. Cảm xúc thơ bừng lên, rạo rực men say ái tình. Cái khao khát “cuồng điên” của trăng biểu hiện trong tư thế, tâm trạng, thậm chí cả trong cái ý nghĩ trần thế: để lả lơi.

Con người trong thơ Hàn Mặc Tử được bao bọc "bằng ánh sáng, bằng huyền diệu”, “say sưa và ngây ngất vì ánh sáng”, bầu trời càng sáng con người càng “hứng trí”. Thậm chí đi trong ánh sáng "đê mê, không biết là có mình và nhận mình là ai nữa.” Ánh sáng tạo ra ở chủ thể sáng tạo cảm giác siêu thoát hay hư vô. Ánh sáng với vẻ trắng trong, đồng trinh, thanh thoát của nó - trong cảm quan của Hàn Mặc Tử - là hiện thân của Đấng tối linh, của Đức Mẹ. Ánh sáng được ví với thứ ma lực vô song, “xô thi sĩ đến bờ huyền diệu”. “Mùa trăng bát ngát... lòng tôi rực lên cảm hứng”, “từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sánh của chiêm bao vây riết..." (“Chiêm bao với sự thực”). Ánh sáng vừa vĩnh viễn vừa không vĩnh viễn. Có ánh sáng thực, ánh sáng mộng. Có thứ ánh sáng "tan thành bọt", có loại ánh sáng muôn năm mà thi sĩ khao khát chiếm giữ được. Ánh sáng "giải thoát cái "ta" của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt..."

Trong cảm quan Hàn Mặc Tử, ánh sáng của các vì tinh tú giống như "châu ngọc", "hào quang", ánh sáng của sao, trăng hợp lại thành một "vùng trời mộng", "khí hạo nhiên". Biết bao nhiêu thứ ánh sáng, nổi bật là ánh trăng. Chỗ nào cũng trăng, "tưởng chừng như bầu thế giới… cũng đang ngập lụt trong trăng, đang trôi nổi bình bồng đến một địa cầu nào khác", "cả không gian đều chập chờn những màu sắc phiếu diễu…" Trên con đường sáng láng ấy, Hàn Mặc Tử đi "tìm Chân lý ngàn năm" ("Chiêm bao với sự thực").

Bên cạnh hình ảnh ánh sáng, thơ Hàn Mặc Tử cũng tràn đầy âm thanh. Đó là "tiếng thất thanh rùng rợn", là "giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng". Thi sĩ bộc bạch: Nàng đánh tôi đau quá / Tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Hơn một lần thi sĩ nghe thấy âm thanh kì dị ở chốn âm u:

Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
("Trường tương tư")

"Trường tương tư" tái hiện "tiếng nói siêu thực", tiếng nói dị thường. Cảm quan về sự tồn tại của cái lạ thường đã xui khiến Hàn Mặc Tử tìm đến thế giới Hư Vô, tới "cõi vô cùng".

Mới hay cõi siêu hình cao tột bậc
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
("Siêu thoát")

Cũng hình như, em hỡi, động Huyền Không
Mà đêm nghe, tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phổi trong tim trong hồn nữa..
(“Trường tương tư”)

Thi nhân nhạy cảm với mọi âm thanh, đặc biệt là âm thanh vang lên từ tư tưởng, âm thanh từ cõi mờ, cõi huyền của cuộc sống.

Xuân Diệu bồng bột, đôi mắt xanh non biếc rờn nên nhìn mọi thứ đều tươi mới. Xuân Diệu không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần / Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất. Còn Hàn Mặc Tử cứ đi mãi vào sâu thế giới tâm linh, thế giới huyền hoặc của hồn và máu. Hàn Mặc Tử thấy mọi vật đang ở chặng cuối cùng hoặc đương lao nhanh về ngày tận thế, nên ông thấy trước cả “thế giới âm u”. Hàn Mặc Tử thường tạo ra một thế giới mênh mông, không giới hạn: Không gian dày đặc toàn trăng cả Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng Nhà thơ của những "Hương thơm" và "Mật đắng" thường nắm lấy tính chất tượng trưng của mọi hiện tượng. Thi nhân đồng hoá Hữu Thể với Hư Vô:

Đây là tất cả người anh tiêu tán
Cùng trăng sao bàng bạc xứ mơ say

Theo cách diễn đạt của Hàn Mặc Tử, thì Hư Vô là một thực tại đặc biệt, có thanh-sắc, hình hài:

Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của Hư vô

Mới hay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, xa lắm, hãi nhường bao
Ai tới đó chẳng mê man thần trí

Hàn Mặc Tử viết bằng tưởng tượng và "giấc mơ" trọn vẹn của chính mình. Mọi thứ trong thế giới thơ Hàn Mặc Tử đều huyền ảo. "Cái huyền ảo luôn đẹp, bất kỳ cái huyền ảo nào cũng đẹp" (André Breton). Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người đọc phải "tư duy và nhìn theo nhà thơ".

Trần Thiện Khanh

[5]Toàn bộ thơ được trích dẫn ở đây, căn cứ vào cuốn: Hàn Mặc Tử, tác phẩm, phê bình và tưởng niệm (Phan Cự Đệ tuyển) và Hàn Mặc Tử thơ (Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu).
[6]Đỗ Lai Thuý: Mắt thơ, Nxb Văn hoá thông tin, H, 2000, tr. 214.
[7]Dẫn theo: Phạm Văn Sĩ: Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, H, 1986, tr. 42.
[8]Dẫn theo: Phạm Văn Sĩ: Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, H, 1986, tr. 46.