Cả thế giới đã từng ngưỡng mộ một nước
Nhật phục hồi mạnh mẽ kinh tế sau chiến tranh, kính trọng một tinh thần
Đức trong công việc hay trầm trồ trước những thành tựu về khoa
học và kỹ thuật Mỹ... Chắc chắn việc đi tìm nguyên nhân của những thành
công đó sẽ không bao giờ chấm dứt, vì nó luôn được nhìn ở nhiều góc độ.
Ở đây, chỉ xin giới thiệu một góc nhìn khác về sự phát triển của một
quốc gia, dựa vào một khái niệm mới: Hạ tầng tư duy. Bài viết của Tiến
sỹ Giáp Văn Dương (Singapore). Có thể coi đây cũng là một cách lý giải
về sự thành công của các dân tộc khác nhau trên thế giới.
-------------------------------------
Chúng ta đã nghe nói nhiều đến tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng kinh tế, nhưng chưa nghe nói đến tầm quan trọng của hạ tầng tư duy. Vì thế, bài này đưa ra một khái niệm mới: hạ tầng tư duy, và bước đầu thảo luận vai trò của nó với công cuộc phát triển đất nước.
Hạ tầng tư duy là toàn bộ những gì góp phần khai mở,
hỗ trợ, giải phóng và phát huy khả năng tư duy của cá nhân và cộng đồng. Cấu
trúc của hạ tầng tư duy gồm sáu yếu tố chính: Thành tựu tư tưởng của nhân loại
(TTNL); Hệ tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời (HTT-QĐ); Cơ chế pháp lý hỗ
trợ (CCPL); Thói quen, kĩ năng tư duy cá nhân (TQ-KN); Văn hóa, môi trường làm việc (VH-MT); Liên thông, trao đổi tư tưởng
(LT-TĐ).
Cấu trúc của hạ tầng tư duy
Mỗi yếu tố có vai trò khác nhau, nhưng có quan hệ chặt
chẽ với nhau, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong việc hình thành hạ tầng tư duy
của đất nước. Cái này hoặc làm nền, hoặc là sản phẩm gián tiếp của cái kia,
hoặc thúc đẩy hỗ trợ cho cái kia hình thành và phát triển. Cụ thể:
Thành tựu tư tưởng nhân loại tạo nền
tảng và khung tư duy chung cho mọi cá nhân tiếp cận và sử dụng nó, không phân
biệt địa lý, sắc tộc. Một đất nước tiếp thu được càng nhiều thành tựu tư tưởng
của nhân loại thì hạ tầng tư duy của đất nước đó càng phong phú, vững chắc.
Hệ tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời chi phối và
quyết định việc hình thành các khung mẫu tư duy hiện thời của một đất nước,
được hình thành thông qua do sự lựa chọn của quốc gia đó từ kho tàng tư tưởng
nhân loại dưới sự chi phối của các đặc điểm lịch sử, kinh tế, văn hóa, địa lý
cụ thể. Như vậy, hạ tầng tư duy của một đất nước phụ thuộc rất nhiều vào sự lựa
chọn đúng hay sai, nếu đúng thì đã tối ưu chưa. Nếu đã tối ưu thì có cần điều
chỉnh theo thời gian, khi các đặc điểm lịch sử, văn hóa, kinh tế cụ thể đã thay
đổi.
Cơ chế pháp lý hỗ trợ có vai trò thúc đẩy việc và phát huy
khả năng tư duy của cộng đồng, thông qua việc khuyến khích, hỗ trợ cá nhân, tập
thể trong việc khám phá, truyền bá, tiếp thu và sáng tạo tri thức (ví dụ các cơ
chế khuyến học, hỗ trợ sinh viên, các giải thưởng...
), đồng thời
bảo vệ quyền lợi của những cá nhân có các sản phẩm tư duy có giá trị (ví dụ
luật bản quyền).
Thói quen, kĩ năng tư duy cá nhân quyết định
việc các nhân đó có tư duy hiệu quả hay không, thông qua đó ảnh hưởng trực tiếp
đến hạ tầng tư duy của đất nước. Vì suy cho cùng, mọi thành tựu tư duy của cộng
đồng đều là sản phẩm tư duy của các cá nhân. Tuy nhiên, thói quen và kĩ năng tư
duy tốt như tư duy sáng tạo, tư duy phê phán, tư duy hệ thống không phải tự
trên trời rơi xuống, mà hình thành trong quá trình đào tạo và rèn luyện không
ngừng của mỗi cá nhân.
Văn hóa, môi trường làm việc ảnh hưởng
trực tiếp đến thói quen và hiệu quả làm việc của cá nhân, qua đó cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của hạ tầng tư duy. Nếu văn hóa và
môi trường làm việc cởi mở, lành mạnh, tôn trọng sự khác biệt thì hạ tầng tư
duy phong phú, đa dạng và linh hoạt. Ngược lại, sẽ chỉ là sự nghèo nàn, xập xệ
và cứng nhắc một chiều.
Liên thông, trao đổi tư tưởng làm cho hạ
tầng tư duy được kết thành hệ thống vững vàng, biểu hiện dưới dạng một mạng
lưới liên thông hữu cơ mà qua đó, tư tưởng được tự do lưu thông. Nếu không có
liên thông, trao đổi tư tưởng, thì sản phẩm tư duy của mỗi cá nhân chỉ có tác
động đến đời sống của cá nhân cụ thể đó, như một ngưới có trí tuệ nhưng sống
giữa đảo hoang, mà không có tác động nào đáng kể đến hạ tầng tư duy và sự phát
triển của đất nước mà cá nhân đó đang sinh sống.
Vai trò của hạ tầng tư duy
Nếu một người chỉ được coi là trưởng thành khi có thể
suy nghĩ độc lập thì một đất nước cũng vậy. Đất nước chỉ trưởng thành khi có tư
duy độc lập, phong phú và sáng tạo. Muốn vậy, phải có một hạ tầng tư duy vững
chắc, lành mạnh, cởi mở và thông thoáng làm nền tảng.
Chính việc thiếu hạ tầng tư duy vững chắc đã đẻ ra
những kiểu tư duy kì quặc trong mọi lĩnh vực của đời sống, ở mọi cấp độ. Lãnh
đạo thì có tư duy nhiệm kì, tư duy đối phó, tư duy bằng cấp, thiên về hình thức
và giải quyết những tình huống cụ thể mà thiếu tư duy chiến lược, tư duy tổng
thể dài hạn. Trí thức, văn nghệ sĩ thì thiếu tư duy độc lập, tư duy phê phán và
phản biện nên không thể vượt lên hướng dẫn sự phát triển của xã hội.
Ở trường thì thầy đọc trò chép mà không cần phải nghi
ngờ những điều đọc chép đó đúng hay sai, có cẩn sửa chữa, bổ sung hay cải tiến
gì không, nên sản phẩm là những cử nhân, kĩ sư luôn cần “cầm tay chỉ việc”,
phải đào tạo lại vì không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động. Ở nhà,
người trên áp đặt người dưới và các thế hệ không biết cách đối thoại, tạo ra
những xung đột, căng thẳng không đáng có.
Tất cả những điều này, kéo dài từ năm này qua năm
khác, thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho hạ tầng tư duy của dân tộc vốn đã
manh mún, nghèo nàn và xập xệ lại ngày càng trở nên manh mún, nghèo nàn và xập
xệ hơn. Kết quả là chúng ta luôn phụ thuộc vào tư duy của bên ngoài, theo cả
không gian lẫn thời gian, có khi lùi lại đến hàng trăm năm và cách xa nửa vòng
trái đất, dẫn đến việc không tạo ra được những thành tựu kinh tế, khoa học,
nghệ thuật và tư tưởng gì đáng kể trong tương quan so sánh với thế giới bên ngoài.
Có một điều gần như được thừa nhận hiển nhiên: muốn
phát triển kinh tế, phải có cơ sở hạ tầng kinh tế như đường xá, cầu cống, hệ
thống thông tin, điện, nước... tốt. Cơ sở hạ tầng kinh tế càng tốt thì nền kinh
tế sẽ phát triển càng nhanh. Mở rộng điều này sang mục tiêu phát triển đất nước
như một tổng thể thì thấy: muốn phát triển đất nước, phải có hạ tầng tư duy
tốt.
Hạ tầng tư duy tốt sẽ tạo ra những chính sách tốt và
kịp thời điểu chỉnh các chính sách đó sao cho phù hợp trước những biến động của
thời cuộc. Chính sách càng tốt, sự điều chỉnh chính sách càng kịp thời và thích
hợp thì đất nước sẽ phát triển càng nhanh và vững chắc.
Không chỉ có ích cho việc ra chính sách và điều chỉnh
chính sách của lãnh đạo, hạ tầng tư duy tốt còn tạo ra các thế hệ công dân có
năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, tạo điều kiện cho việc triển khai các
chính sách tốt được thành công và thúc đẩy việc đề xuất các sáng kiến và chính
sách mới.
Nếu hạ tầng tư duy manh mún, nghèo nàn và xập xệ, đất
nước sẽ chỉ mãi quẩn quanh trong vòng nghèo hèn và lạc hậu. Xã hội khi đó sẽ
chỉ là tập hợp của những đứa trẻ to xác. Đất nước sẽ mãi chỉ là đất nước vị
thành niên.
Vậy thì tồn tại và phát triển làm sao trong cơn lốc
toàn cầu hóa mà ở đó, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và gia tốc không ngừng?
Nếu trong các nền kinh tế nông nghiệp và công nghiệp
cổ truyền, sự lặp đi lặp lại của một qui trình hoặc một khung mẫu tư duy là có
thể bao biện được, thì trong nền kinh tế tri thức, những gì đông cứng, khép kín
sẽ là dấu hiệu của sự chết. Còn sự sáng tạo và thích ứng liên tục sẽ là biểu
hiện và tiêu chuẩn của sự phát triển.
Tri thức là sản phẩm của tư duy, nên trong nền kinh tế
tri thức, hạ tầng tư duy đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra những tri
thức có giá trị. Thiếu hạ tầng tư duy, đất nước sẽ không chỉ quẩn quanh trong
nghèo hèn và lạc hậu như trong các nền kinh tế nông nghiệp và công nghiệp cổ
truyền, mà sớm hay muộn cũng sẽ bị tiêu diệt. Vì không có lý do gì cho anh tồn
tại khi anh không có năng lực tư duy thích đáng trong một hình thái kinh tế mới
mà ở đó tư duy phong phú và sáng tạo đóng vai trò quyết định sống còn.
Để tránh thảm họa đó, cần thiết hơn bao giờ hết, phải
xây dựng được một hạ tầng tư duy đa dạng, vững chắc và thông thoáng về mọi mặt
của đời sống cho đất nước. Trong quá khứ, chúng ta đã có những lúc, những nơi,
những cá nhân làm được một phần việc này: tạo được một vài sản phẩm tư duy được
thế giới thừa nhận, thể hiện hùng hồn qua công cuộc bảo vệ đất nước trước những
thế lực ngoại xâm lớn hơn mình nhiều lần. Vậy thì không có lý do gì, trong hiện
tại và tương lai, chúng ta không làm được như vậy.
Vấn đề là chúng ta muốn làm, và dám làm hay không?
Giáp Văn Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét