Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

Người khổng lồ tiên phong của văn chương tả chân

Nhà văn Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là nhà văn - nhà báo nổi tiếng của Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Ông là tác giả của những tiểu thuyết lớn trong nền văn học Việt như: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ,..., là tác giả của những thiên phóng sự đình đám thời đó (có người đã gọi ông là ông vua phóng sự đất Bắc), những vở kịch và truyện ngắn. Với lối viết châm biếm sâu cay, giọng văn tửng tưng quyến rũ đến kinh ngạc, ông đã khắc họa rất rõ nét cái xã hội lai căng, nửa tây nửa ta của Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Những nhân vật trong tác phẩm của ông như Xuân Tóc đỏ, Nghị Hách, ông cố Hồng, cậu ấm con bà phó Đoan,... rồi những câu nói như: "Biết rồi khổ lắm nói mãi" hay "Em chã. Em chã" đã đi vào cuộc sống hàng ngày và trở nên thông dụng cho đến tận bây giờ. Diễm phúc đó mấy tác phẩm có được. Âu đó cũng là hạnh phúc của nhà văn...

Có một thời, những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không được phép phổ biến và tên tuổi của ông bị dìm xuống bùn đen, bởi quan niệm văn chương tả chân và có yếu tố tình dục (mà có người gọi là đồi trụy) trong đó. Cuộc sống của ông rất nghèo khổ và cơ cực. Dù chỉ có mặt trong cuộc đời vỏn vẹn chỉ 27 năm, song ông đã để lại cho hậu thế một gia tài tác phẩm đồ sộ và vô giá. Sức sáng tạo phi thường của ông xứng đáng được lớp người đi sau tôn vinh, cảm phục và có thể gọi đó là thiên tài. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, trân trọng giới thiệu với bạn đọc một bài tưởng niệm về ông, của nhà văn Hoàng Minh Tường...
----------------------------------------------------
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, tháng 10 này tròn 100 năm sinh và 73 năm mất.

Đôi vế đối của nhà văn Đồ Phồn viết trong đám tang ngày lạnh giá năm 1939 ấy được khắc hai bên mộ chí nhà văn tài danh Vũ Trọng Phụng, da diết làm sao:
  " Cạm bẫy người tạo hoá khéo căng chi, qua Giông tố tưởng thêm Số đỏ.
   Số độc đắc văn chương vừa trúng thế, bỗng dứt tình Không một tiếng vang."[1]
- Không mấy người có số phận chìm nổi như ông cụ bố vợ tôi chú ạ- Ông Nghiêm Xuân Sơn, con rể nhà  văn Vũ Trọng Phụng tâm sự với tôi - Đến đời ông cụ là ba đời độc đinh. Giống vợ tôi, ông cụ mất bố từ năm một tuổi. Trong giấy khai sinh của ông cụ mà chúng tôi còn giữ trong nhà thờ kia, tên ông nội vợ tôi là Vũ Lâm, bà nội vợ tôi là Phan Thị Khách. Hồi còn sống, bao nhiêu lần vợ chồng tôi đã về Mỹ Hào, Hưng Yên tìm gốc tích nhưng chỉ tìm thấy và xây dựng phần mộ ông nội cụ Phụng... Ân hận nhất của tôi cho đến bây giờ là không biết mộ bố cụ Phụng nằm đâu... Riêng mộ bố vợ tôi, phải sau bốn lần di dời, ông cụ tôi mới được về nằm ở mảnh đất bên ngoại này...
- Lần đầu tiên là đám tang từ ngôi nhà số 73 phố Cầu Mới về nghĩa trang Quảng Thiện...- Tôi nói và bỗng nhớ đến bài "Một đêm đưa ma Phụng" của Nguyễn Tuân. Mấy nhà văn bạn Vũ đang chơi bên Gia Lâm thì được tin Vũ mất. Tảng sáng, không còn tiền, họ đi bộ qua cầu sông Cái về Cầu Mới, rồi nhập vào đám tang đưa tiễn Vũ về nơi an nghỉ ở nghĩa trang làm phúc Quảng Thiện.
- Năm 1955, nghĩa trang Quảng Thiện giải toả để lập khu công nghiệp Thượng Đình, phần mộ ông cụ được đưa về khu đất đầu làng Giáp Nhất, nay là địa điểm Truyền hình cáp. Rồi máy bay B52 Mỹ đánh bom khu ấy. Gia đình lại chuyển mộ về nghĩa địa Quán Dền. Năm 1988, một phần nghĩa địa Quán Dền phải giải toả làm mương và làm đường, gia đình xin với chính quyền địa phương dời mộ ông cụ về khu đất của gia đình...
- Vậy là chính mảnh đất này là hương hoả của bên vợ nhà văn?
- Vâng. Thổ đất này là của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Bà mẹ vợ tôi, cụ Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích. Hồi ấy, cụ Phụng cùng với bà mẹ thuê nhà ở phố Hàng Bạc. Mến tài năng và lòng hiếu đễ của nhà văn, ông Cửu Tích đồng ý gả cô con gái yêu, nổi tiếng xinh đẹp nhất làng Mọc và cả đất Hà Thành cho nhà văn danh tiếng. Đám hỏi và đám cưới của bố mẹ tôi, người trong làng bây giờ còn nhớ. Lúc nào dỗi tôi sẽ đưa chú đến hầu chuyện cụ Nguyễn Bá Đạm, nhà ở gần đây...
***
Tôi xin được cắt ngang câu chuyện và nhờ ông Sơn đưa đến gặp cụ Nguyễn Bá Đạm.

Đi đến cái ngõ sâu có hàng rào ô rô dẫn lối, bỗng gặp một khuôn viên rộng chừng năm trăm mét vuông có ngôi biệt thự hai tầng nằm giữa vườn cây tĩnh lặng. Cả cụ ông và cụ bà đều ngoại tám mươi, tóc trắng như cước, phong thái như những ẩn sỹ, tiếp chúng tôi hết sức ân cần lịch thiệp. Nghe danh cụ Nguyễn Bá Đạm, người sưu tầm tiền cổ, hiện vật cổ, bạn thân của những Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tuân và nhiều danh sĩ, đã lâu, nhưng bây giờ tôi mới được kiến diện. Dáng cao to, đôi mắt sáng, mũi gồ cao, cụ Đạm còn giữ nguyên vẻ quắc thước, thông tuệ, giống như bức chân dung mà danh hoạ Bùi Xuân Phái vẽ tặng cụ đang treo trên tường kia. Nghe nói, cụ Phái từng vẽ mấy chục bức chân dung về cụ Đạo. số tranh ấy giờ có giá bạc tỷ. Lại nghe nói cụ Đạm còn giữ nhiều thư và bút tích của nhà văn Nguyễn Tuân gửi cho mình....
- Dạ thưa cụ, chắc cụ còn nhớ đám cưới nhà văn Vũ Trọng Phụng...
- Tôi là người hâm mộ tài văn của cụ Phụng từ hồi còn trẻ - Cụ Đạm chậm rãi kể lại như lật dở những trang hồi ức - Mê văn ông cụ tới mức, có quyển sách mới của Vũ Trọng Phụng là tôi đến mượn chị Gái đọc ngấu nghiến. Nhà tôi với nhà chị Gái gần nhau. Tôi kém tuổi chị Gái, kém nhà văn Vũ Trọng Phụng chục tuổi, là bậc đàn em. Hồi ấy tôi mười sáu tuổi. Lần đầu trong đời tôi được thấy một đám cưới to và sang trọng như thế. Nhà gái, ông bà Cửu Tích giàu có danh giá thì ai cũng biết: Anh cả Vũ Kim Bảng có hiệu thuốc ở Đường Láng, anh Vũ Bồi Chinh có cửa hiệu bánh ngọt ở Cầu Đất, Hải Phòng, anh Vũ Cự Chân chủ hiệu thuốc cam Hàng Bạc nổi tiếng. Chú rể là một nhà văn tuy nghèo nhưng danh tiếng đang nổi như cồn. Đám cưới tất không thể xem thường... Tôi còn nhớ lễ ăn hỏi trước đám cưới nửa tháng. Nhiều nhà trong làng được biếu một bánh chưng, một bánh dày, một gói nem kèm quả cau và lá trầu vấn danh. Ngày 23 tháng 1 năm 1938 , lễ cưới của nhà văn Vũ Trọng Phụng và chị Vũ Mỹ Lương diễn ra như trong tiểu thuyết. Suốt từ chợ Cống Mọc đến cổng làng Giáp Nhất, người xem đông nghịt. Mười chiếc ô tô con sơn đen nối đuôi nhau. Từ cổng làng, đoàn rước dâu xuống đi bộ. Chú rể Vũ Trọng Phụng mặc áo đoạn, đội khăn đóng, đi giày Gia Định. Đoàn nhà trai nhiều người mặc complê, thắt cravát, trong đó có nhiều bạn văn nổi tiếng. Tiếng pháo nổ giòn mừng đón nhà trai. Lễ rước dâu được cử hành ngay tại ngôi nhà ngang trên phần đất nhà tưởng niệm bây giờ. Cô dâu, bà chị Gái của tôi, như hoa hậu. Chị lộng lẫy duyên dáng trong chiếc khăn vành dây màu lam, hoa tai đầm, cổ đeo kiềng vàng, áo dài màu hồng, chân đi giày nhung đen cẩn hạt cườm. Chú rể cô dâu cùng bước tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ. Lại một tràng pháo nổ. Đúng giờ hoàng đạo, nhà trai xin phép rước dâu về phố Hàng Bạc...

Tôi cố mường tượng ra đoàn rước dâu qua cổng làng Giáp nhất. Đi sau một cụ già râu tóc bạc phơ, áo sa màu lam, cầm hương nghi ngút, là chú rể nhà văn của chúng ta đi giữa hai hàng phù rể. Rồi cô dâu tiếp sau, đi giữa hai nàng tố nữ phù dâu, tay cầm quạt che mặt. Trên mắt nàng hình như có hai ngấn lệ. Không biết nàng quá hạnh phúc hay  thương cha mẹ vì phận gái xa nhà...

Có ai ngờ ngấn nước mắt ấy, chỉ chưa đầy hai mươi mốt tháng sau, tức ngày 13-10-1939, đã trở thành giọt thương phu trích lệ, thành nỗi đau hai mươi nhăm tuổi đời thiếu phụ goá bụa...
- Trong thú chơi sưu tầm suốt mấy chục năm, bây giờ đã ngút 90 tuổi, tôi đắc ý nhất là đã chuộc lại được tấm thẻ nhà báo và cuốn sổ biên đồ mừng cưới của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Nghe cụ Đạm nói, tôi giật mình, tưởng như người chơi đồ cổ bỗng tìm thấy một bảo vật thời Lý Trần.
- Dạ, con đang nghe cụ...
- Chuyện này liên quan đến một học giả đã mất mấy năm nay, mà vì lý do tế nhị tôi muốn chú giấu tên, nay ta cứ gọi là ông T. Hồi ấy tôi thường giao du với ông T. và thấy ông T. có hai bảo vật kia của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Với tình cảm rất ngưỡng vọng nhà văn, lại là người biét rõ giá trị của hai bảo vật, tôi tìm mọi cách để ông T. nhượng lại. Cuối cùng tôi phải đổi một bức sơn dầu hề chèo mà danh hoạ Bùi Xuân Phái đã cho tôi để có được cuốn sổ và tấm thẻ nhà báo. Tôi đã khoe với chị Hằng và anh Sơn về chuyện này. Tôi bảo sẽ tặng hai vợ chồng, nhưng với điều kiện khi nào con gái và con rể cụ Vũ Trọng Phụng xây được nhà tưởng niệm cho bố...
- Dạ, thế còn bức tranh? Tác phẩm của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái  giờ ở đâu? thưa cụ.
Cụ Đạm trầm ngâm vẻ buồn rầu:
- Tiếc rằng người ta đã bán... Tôi được biết ông Tuấn ở Sài Gòn đã mua với giá 6.000 đô la. Buồn hơn nưa là sau này, nghe anh Sơn nói, chính chị Hằng và anh Sơn đã cho ông T. mượn tấm thẻ nhà báo và cuốn sổ tay để làm tài liệu nghiên cứu. Rồi ông T. "quên" không trả...
Tôi không buồn mà chỉ thở dài.
- Chú biết là tôi mừng khi chuộc được hai bảo vật ấy như thế nào không? - Cụ Đạm lại hào hứng nói - Cuốn sổ chỉ gần bằng bàn tay thôi, nhưng đọc những gì ghi trong đó, sẽ nhận ra cốt cách của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Ông ghi lại tất cả những gì bạn bè người thân đã mừng vợ chồng mình. Ghi để nhớ ơn và rồi để trả nợ. Tôi thấy ông cộng tất thảy được 63 đồng tiền mặt và rất nhiều hiện vật, câu đối tặng, trong đó lớn nhất là 7 đồng nộp tiền treo cho làng của bà Cả Viên, chị ruột cô dâu. Tục làng ngày ấy, con gái lấy chồng làng phải nộp treo 5 đồng, lấy chồng thiên hạ phải nộp 7 đồng. Tiền treo ấy để làng mua gạch lát đường hoặc xung vào các việc công ích. Nói thêm để chú dễ hình dung nhé. Một đồng ngày ấy bằng một trăm xu, bằng hai trăm chinh. Hai đồng mua được một tạ gạo, ba đồng một chỉ vàng, đi xe điện từ Cầu Mới đến Bờ Hồ mất ba xu...
*
*  *
Tôi cảm tạ cụ Nguyễn Bá Đạm đã cho những thông tin bổ ích, rồi trở lại nhà tưởng niệm nhà văn Vũ Trọng Phụng để xem những bảo vật.

Ông Nghiêm Xuân Sơn trịnh trọng lấy chìa khoá mở tủ. Quả là ông con rể quí của nhà văn đang như người chủ một bảo tàng tư nhân độc đáo và quí hiếm. Tấm giấy khai sinh viết bằng ba thứ chữ Pháp, Hán và Việt của nhà văn Vũ Trọng Phụng từ 95 năm trước vẫn nguyên vẹn với dấu triện đồng sắc nét. Hai tấm thẻ nhà báo, đều có ảnh nhà báo Vũ Trọng Phụng đóng dấu nổi.
Bút tích của nhà văn họ Vũ, bằng bút chì đỏ, bút chì than và bút mực, thoáng hoạt và rắn rỏi như mới viết hôm qua:
" Nguyễn Tuân đi thuê ô tô ở Hàng Bông. Ngô Tất Tố và Phạm Cao Củng mừng bức trướng "Hồng diệp thi thanh". Ông Nguyễn Văn Đa, chủ nhiệm báo Phụ Nữ thời đàm mừng câu đối. Nhà xuất bản Mai Lĩnh in tặng 110 giấy báo hỉ và mừng câu đối: "Ngoài bể sóng vang, mây tối ngán thay đời thiết huyết / Trước vườn hoa nở, đuốc hồng vui có bạn quần thoa". Đái Đức Tuấn mừng một bài thơ lồng trong khung kính. Hai anh em Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp mừng hai dò hoa thuỷ tiên. Ngọc Giao, Vũ Bằng, Phùng Bảo Thạch mừng ba chai vang Emer Pháp. Vũ Đình Liên mừng một hộp thuốc lá Lucky vv..."
- Sao bác không xin nhà nước lập một bảo tàng tư nhân? - Tôi quá choáng ngợp bởi những bảo vật mà mình đang thấy trước mặt - Hay là bác định dành tặng Bảo tàng Nhà văn đang sắp hoàn thành?
Thấy tôi như gãi trúng chỗ ngứa, ông Sơn mở lòng:
- Thú thật với chú, lâu nay tôi vẫn đau đáu vì việc này. Tôi thấy có lỗi với ông cụ và với nhà tôi. Cũng là vì bôn ba sinh kế, vì các thủ tục...
Những tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng
Ông Sơn dừng lại rất lâu. Tôi đoán ông đang nghĩ đến những chuỗi ngày rất dài đã qua. Làm rể nhà văn mà không hề biết mặt bố vợ. Yêu cô con gái  họ Vũ năm cô 16 tuổi, khi Vũ Mỹ Hằng cùng với bà nội và mẹ đẻ là ba người đàn bà sống dựa vào nhau bằng mẹt hàng chợ Cầu Mọc và nghề đan lát, khâu vá thuê. Cưới vợ, ở nhà vợ, và trở thành người đàn ông, chỗ dựa duy nhất trong nhà. Tự học lấy bằng sư phạm và kỹ sư kinh tế. Mấy năm là chiến sỹ thi đua ngành đường sắt, có bố đẻ tham gia tiền khởi nghĩa, là bộ đội Điện Biên Phủ, cựu đảng viên, nhưng bao lần xin vào Đảng không được. Chỉ vì có ông bố vợ là nhà văn bị ông Hoàng Văn Hoan khi ấy là nhà lãnh đạo cao cấp, vu là nhân thân bất hảo, tác phẩm suy đồi, bị ghi sổ đen, bị cấm in, cấm đọc...
- Nhiều người bảo rằng cụ Vũ Trọng Phụng được người con rể chu tất...
Ông Sơn vội chữa:
- Tôi thì lại nghĩ mình chưa làm được là bao. Khi bước và tuổi bẩy mươi nhăm, tôi thấy thời gian của mình không còn nhiều… Từ hồi nhà văn Vũ Trọng Phụng được nhà nước chiêu tuyết, cho lập tên đường phố, sách được tái bản nhiều, con cháu đều được hưởng lộc, đều có chút của ăn của để. Để ghi nhớ công ơn của cụ, con cháu đã quy hoạch trên nền đất cũ của gia đình 300 mét vuông, có sổ đỏ, tường bao riêng, bao gồm nhà tưởng niệm, khu mộ phần, sân vườn và nhà khách, thành  một khu tưởng nhớ nhà văn Vũ Trọng Phụng.
- Nghe nói sẽ còn có cả giải thưởng Vũ Trọng Phụng...
- Một số bạn bè và những người hâm mộ ông cụ cũng khuyên tôi thế. Chúng tôi cũng đã dành dụm từ số tiền nhuận bút tái bản sách của cụ, cùng tiền cho thuê nhà, đất… Còn việc này. Gia đình đã có đơn, Hội Nhà văn Việt Nam  cũng đã có công văn gửi Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch và thành phố Hà Nội xin được cho khu tưởng niệm ông cụ thành Di tích Nhà nước. Chúng tôi chỉ xin chứng nhận thôi. Đất đai cùng mọi cơ sở vật chất gia đình chúng tôi xin tự lo tất. Cái chính là chúng tôi xin Nhà nước cho ba chữ...
- Ba chữ gì hả bác?
- Ba chữ "Cấm vi phạm" chú ạ. Vì tôi muốn phòng xa. Tôi muốn tất cả con cháu sau này không đứa nào được nhòm ngó chia chác khu linh thiêng này. Đất ở đây giờ vài chục triệu một mét vuông. Ba trăm mét vuông là cả chục tỷ đồng...
- Vô giá đấy bác ạ.
Tôi muốn cải chính. Tôi muốn nói với ông Sơn rằng, nếu chúng ta biết cách gìn giữ và bảo tồn, phát huy, chính Vũ tiên sinh sẽ làm cho cái tên làng Mọc Giáp Nhất này vang xa đến vô cùng. Rồi đây sẽ có người chậm bước trên con đường lát gạch nghiêng từ cổng làng Giáp Nhất để tìm xem có viên gạch nào được lát bằng bẩy đồng tiền treo cưới mà nhà văn đã góp cho làng. Rồi đây sẽ có người đến trước cổng làng nhẩm đọc ba chữ đại tự trên tháp cổng: "Tiểu Cao Đại" để nghe các bậc thâm nho giảng nghĩa, rằng các cụ xưa muốn nói làng Mọc Giáp Nhất tuy nhỏ bé, khiêm nhường nhưng cao cả, lớn lao... Có lẽ chàng rể nhà văn tài năng Vũ Trọng Phụng, khi bước qua cổng làng Mọc, đến vái lạy anh linh thần làng, tiên tổ và trời đất để đón nàng Vũ Mỹ Lương về làm vợ, là đã ngầm mang đến cho làng một phần của sự cao cả, lớn lao ấy... Nhân đây tôi cũng muốn được thưa lại cả với nhà thơ cách mạng Tố Hữu về câu đại tự của ông viết năm 1949 được gia đình khắc trang trọng trên phần mộ nhà văn kia: "Vũ Trọng Phụng không phải nhà cách mạng, nhưng cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng". Hiểu vậy e rằng quá khắt khe. Ngay từ những năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã là nhà văn của người lao khổ. Càng đọc tác phẩm của ông càng rõ điều đó. Vũ Trọng Phụng chính là nhà cách mạng, nếu hiểu theo nghĩa phổ quát của khái niệm này. Nếu ông không bị lao lực bệnh tật mất từ năm 1939, chắc chắn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, như bao bạn văn của ông, những Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân... ông sẽ đứng trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong.
Một trăm năm, nhỡn lại, càng thấy Vũ Trọng Phụng sừng sững như một đỉnh núi, một cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại. Những Số Đỏ, Giông Tố,Vỡ đê,những Kỹ nghệ Lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xỡ, Làm đĩ …đủ làm nên một tượng đài bất hủ. Con người hữu hạn chỉ hưởng dương có 27 năm mà sao có thể sản sinh ra một khối lượng văn học đồ sộ của một người cỡ trăm tuổi. Sống và viết như thế, chỉ có bậc Thiên tài. Vâng, chúng ta tự hào có một thiên tài  Vũ Trọng Phụng.
Nhân 100 năm sinh nhà văn họ Vũ, thiết nghĩ, Hội Nhà văn Việt Nam nên có một nghĩa cử với bậc tiền nhân. Nên chăng, có một Giải thưởng văn học ( tiểu thuyết, phóng sự) mang tên Vũ Trọng Phụng, một ngôi trường (ví như trường THPT Nhân Chính, gần làng Mọc, quê nhà văn) mang tên Vũ Trọng Phụng?

Hoàng Minh Tường


[1] Những chữ in nghiêng là tên tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng

Không có nhận xét nào: