Thứ Hai, 31 tháng 12, 2007

Không đề


Tặng Em

Em đi sáng cả trời chiều
Tim anh rực cháy lửa thiêu đốt lòng
Hà thành mùa đã vào đông
Hình em nhuộm ánh lửa hồng đời anh

Thứ Hai, 17 tháng 12, 2007

Cảm tác ở Huế


Anh hẹn tôi gặp nhau ở Huế

Ngâm thơ uống rượu chốn chân quê

Có em thôn nữ dòm khe cửa

Xao xuyến lòng ai chẳng muốn về

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2007

Em có phải là Diễm ngày xưa?




< name="baseURL" value="">




Chút rung cảm khi nghe bài hát “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn

Tầng tháp đìu hiu thoáng mưa bay
Dấu xưa người cũ vẫn còn đây
Rơi rụng chiều tàn anh nhặt bóng
Xác xơ đá sỏi lạnh đôi tay

Có phải em là Diễm ngày xưa?
Để anh chờ mãi dáng thu mơ
Mưa ướt tim anh từng giọt đắng
Em ơi ! đừng phụ kẻ trong mưa

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2007

Vài nét về nghệ thuật cải lương


Nhà sinh vật học người Anh Thomas Huxley (thế kỉ 19) từng nói rằng người làm khoa học mà không biết đến văn hóa nghệ thuật thì chẳng khác gì một cỗ máy. Tôi rất đồng tình với ý kiến trên. Theo tôi, một con người nếu không biết, không nhớ, không yêu văn hóa nghệ thuật truyền thống thì có lẽ anh/chị ta không thể lớn nổi thành Người được. Cha ông đã để lại cho chúng ta những di sản văn hóa nghệ thuật vô giá, trong đó có nghệ thuật cải lương. Cải lương là bộ môn nghệ thuật ra đời sau các môn như: ca trù, chèo, tuồng, quan họ, nhã nhạc cung đình, hát ví,... nhưng đã có một đời sống vô cùng phong phú, dẻo dai, mãnh liệt trong lòng những người dân Việt.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2007

Biển vắng

Thơ: Trịnh Thanh Sơn
Trình diễn: Kim Dung


Rơi chiều vàng ngơ ngác sóng

Xin đừng dõi chi chân trời

Anh ngồi im chìm chiếc bóng

Chén này biển với mình thôi!

Một cộng với một thành đôi

Anh cộng cô đơn thành biển

Nắng tắt mà người không đến

Anh ngồi rót biển vào chai.

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2007

Cảm nhận về một bài thơ của Đồng Đức Bốn

Tôi đọc thơ Đồng Đức Bốn khá muộn, hơn một năm sau khi nhà thơ đã qua đời do căn bệnh ung thư quái ác. Nhưng những bài thơ lục bát của Đồng Đức Bốn cứ ám ảnh tôi mãi, giống như bị bỏ bùa mê thuốc lú của một người con gái mà mình không thể nào dứt ra được. Tôi như một kẻ độc hành trên sa mạc tìm được nguồn nước cứu sinh khi đọc thơ ông. Phải công nhận rằng, sở trường của Đồng Đức Bốn là thơ lục bát. Nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa, nếu coi bậc thợ kim hoàn cao nhất là 7/7 thì Đồng Đức Bốn được xếp vào bậc 9/7. Ông viết trên 500 bài thơ lục bát, trong đó có khoảng vài chục bài thơ được liệt vào hàng tuyệt đỉnh. Thơ lục bát của ông có một nét riêng, rất quyến rũ, từ tốn, chậm rãi, khiến người ta có cảm tưởng như những câu ca dao, những câu nói bình thường trong đời sống hàng ngày. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp quả đã không ngoa khi cho rằng Đồng Đức Bốn là nhà thơ lục bát kỳ tài của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, khoảng hơn chục sáng tác của ông là tài tử vô địch, còn phần nhiều lại chẳng ra gì [1].

Trong số những bài thơ lục bát tài tử vô địch của ông, bài thơ làm tôi nhớ nhất và đau đầu nhất vì khó hiểu chính là bài "Vào chùa" [2].

Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày

Mới đọc qua, ta cảm giác bài thơ lục bát này có gì đó tầm thường, rỗng tuyếch. Vỏn vẹn 28 chữ, mà cũng chẳng đặc sắc nếu xét về mặt niêm luật thơ lục bát. Nếu nói nghiêm khắc, bài thơ này hỏng về mặt gieo vần cũng như luật thơ. Thứ nhất, ở câu đầu tiên, chữ thứ hai và chữ thứ tư cùng vần bằng với nhau (trưa-mày), trái với luật bằng trắc trong thơ lục bát. Thứ hai, bài thơ bị điệp vận (trùng vần) ở câu thứ hai và câu thứ tư (đi-đi). Như vậy, chỉ có bốn câu lục bát mà đã mắc tới hai lỗi về gieo vần và luật bằng trắc thì làm sao mà thành một bài thơ hoàn chỉnh được. Bài thơ này nếu mà rơi vào tay những nhà phê bình chỉ chăm chăm đi xem mặt chữ để bình phẩm giá trị nghệ thuật thì sẽ bị chê cho tới số. Một người nước ngoài học tiếng Việt ở trình độ sơ cấp chắc là cũng dịch được tốt bài thơ này.

Vậy thì, bài thơ này tuyệt đỉnh ở chỗ nào?

Tôi chợt nhớ tới những bài thơ (hay văn) không có chữ như có lần Trần Đăng Khoa đã từng nói [4]. Không có chữ ở đây nghĩa là bản thân những con chữ bạc phếch kia, tự nó sẽ chẳng là gì nếu ta không thổi hồn thơ vào trong đó, và khi đọc hay bình phẩm những bài thơ không có chữ, nên đọc bằng trực giác nhiều hơn là đọc bằng lý trí. Trong lịch sử thơ ca Việt Nam, có thể bắt gặp một số ít nhà thơ như vậy. Chẳng hạn, trong thơ Bùi Giáng, thơ Hàn Mặc Tử, thơ Lê Đạt... có rất nhiều bài là thơ không có chữ. Thậm chí, có người còn nói đó là những bài thơ điên, vì toàn những gầm rú, la hét, điên loạn,.. chẳng có vần điệu tối thiểu của thơ gì cả. Thực ra thì những bài thơ này đâu có điên loạn như mọi người nghĩ. Chẳng qua là những bài thơ đó được viết ra bằng một thứ được gọi là tư duy vô trí, khi sáng tác nhà thơ không cần quan tâm đến đến cấu trúc thơ, luật thơ ra làm sao mà chỉ cần có một ý tưởng bất chợt lóe lên trong đầu là họ chộp lấy và ghi ra giấy. Họ cũng chẳng cần sửa chữa gì nhiều đối với những bài thơ này. Làm thơ kiểu này khó vô cùng và vì thế, có rất ít nhà thơ có thể sang tác theo kiểu tư duy vô trí được. Những bài thơ không có chữ như vậy không thể hiểu, chỉ cảm nhận được mà thôi, cũng giống như không khí xung quanh chúng ta vậy, có ai nhìn thấy được nó bao giờ đâu mặc dù có thể cảm nhận được nó.

Quay trở lại với bài thơ lục bát này. Theo tôi, đây cũng là một bài thơ không có chữ.

Đang trưa ăn mày vào chùa

Câu thơ nêu lên một sự việc có vẻ lạ đời. Tại sao ăn mày lại vào chùa, và lại vào lúc đang trưa? Nếu chỉ để tìm kiếm cái ăn, sao anh ta không đi đến nơi chợ búa, cửa hàng ăn uống vốn có nhiều thức ăn hơn? Đây là một sự vô tình hay hữu ý của kẻ ăn mày. Tôi đã phải đọc đi đọc lại câu này cả chục lần mà cũng vẫn chưa tìm ra được lời giải thích hợp lý. Tuy vậy, tôi có thể cảm nhận được những cặp từ đối lập “ăn mày – chùa” phải chăng chính là “vô minh – cao minh” theo triết lý nhà Phật. “Đang trưa” ở đây có phải là “nửa đời người” không?

Sư ra cho một lá bùa rồi đi

Đến câu này, sự việc có vẻ rõ ràng hơn. Ăn mày đứng ở chùa mãi không ai cho ăn gì nên có nhà sư thương tình ra cho một lá bùa, có lẽ để “đuổi khéo” kẻ ăn mày đi cho khỏi ô uế nơi cửa Phật, vốn là nơi thanh tịnh không thể chứa chấp một kẻ nghèo hèn nhất xã hội. Vẫn cái giọng điệu thơ rất đặc trưng, tửng tưng đến dễ ghét của thơ Đồng Đức Bốn, giọng thơ làm say đắm lòng người, làm “mê cung đình” ấy mà sao tôi thấy phát sợ, rờn rợn vì cái câu thơ này.

Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày

Kết cục là thế này đây. Ăn mày đang đói mà nhà sư cho lá bùa để làm gì? Có hộ mệnh được gì không? Nghèo kiết xác đến thế thì quỉ thần cũng chẳng thèm tha đi, nữa là những người ở trần gian. Thế nên ăn mày thì vẫn là ăn mày mà thôi, có thay đổi đâu, vẫn cái vòng luân hồi luẩn quẩn ấy, không thoát ra để đến cõi Niết bàn được.

Khi xem lại tiểu sử của Đồng Đức Bốn, tôi thấy ông cũng là một người ngưỡng mộ đạo Phật (ông có theo đạo Phật hay không thì tôi không được rõ lắm). Có lẽ vì lý do đó mà ông đã viết nên bài thơ tuyệt đỉnh này chăng?

Theo như Nguyễn Huy Thiệp đã từng phân loại, thơ lục bát được chia làm hai phái: Ngộ năng và Trí năng. Loại trí năng có vẻ ở câu sáu như thế này thì ở câu tám phải như thế kia, những liên tưởng dễ dắt nhau lôgic và có lý, đọc câu sáu người ta luận được câu tám. Những người nhiều chữ, những trí thức làm thơ, hoặc học đòi trí thức làm thơ thường ở loại này. Loại ngộ năng vị tình, lấy tình át chữ, đọc câu sáu mà không đoán ra được câu tám thế nào. Ngộ năng có phần hay hơn trí năng. Thực ra làm thơ lục bát cần tinh thông trí năng, nhưng trí năng học tập được, rèn luyện được, ngộ năng thì chịu, dứt khoát trời cho. Bởi vậy, lục bát mà ngộ năng thì hiếm quý. Ngộ năng đương nhiên bao gồm trí năng, nhưng trí năng không thể bao gồm ngộ năng được [1]. Theo cách phân loại này, thơ lục bát của Đồng Đức Bốn được xếp vào loại Ngộ năng. Vì vậy mà đọc thơ của Đồng Đức Bốn, ta không thấy chán và tẻ nhạt vì thơ của ông lấy tình làm trọng, không quá quan tâm đến câu chữ, niêm luật mặc dù điều này cũng quan trọng trong thơ ca.

Khi viết những dòng cảm nhận về bài thơ này, tôi cũng vẫn chưa hiểu được hết ý nghĩa của nó. Vội vàng lật giở lại những bài phân tích về thơ của Đồng Đức Bốn của các nhà phê bình văn học trong đó có bài “Vào chùa”, tôi nhận ra rằng đây là một bài thơ thiền. Đã là thơ thiền thì mọi lời bình luận đều vô nghĩa. Còn các bạn, các bạn nghĩ thế nào về bài thơ này?

Tham khảo
[1]. http://nguyenhuythiep.free.fr/giangluoi/GIOITHIEU.html
[2].
http://annonymous.online.fr/Thivien/viewauthor.php?ID=398
[3].
http://www.thovn.net/Viewarthor.asp?athor=44
[4]. Trần Đăng Khoa. Chân dung và đối thoại, NXB Dân tộc 2003

Nhân đây xin giới thiệu với các bạn một số bài thơ mà theo tôi là những tuyệt đỉnh khác của nhà thơ Đồng Đức Bốn. Hy vọng các bạn sẽ bổ sung thêm những bài thơ khác:

Chợ buồn

Chợ buồn đem bán những vui
Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em
Chợ buồn bán nhớ cho quên
Bán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày
Chợ buồn bán tỉnh cho say
Bán thương suốt một đời này cho yêu
Tôi giờ xa cách bao nhiêu
Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư

Đời tôi

Tôi vừa lo được miếng cơm
Thì mất tí lửa tí rơm gầy lò.
Tôi vừa vượt bão mưa to
Chân đã phải lội đi mò sông sâu.

II
Mải mê tính chuyện không đâu
Qua song đã gẫy nhịp cầu chẳng lo.
Bòn mãi được mấy sợi tơ
Giăng ra bao kẻ đã vơ vào lòng.
Bây giờ còn có ai mong
Mà người mượn gió bẻ con trăng ngà.

III

Đời tôi tan nát bơ vơ
Nhớ thương là đợi còn chờ là yêu.
Đời tôi như một con diều
Đứt dây để trống cả chiều ngẩn ngơ.


VI
Đời tôi mưa nắng ở đâu
Bây giờ vuốt gió trên đầu tóc rơi.
Đời tôi tình rách tả tơi
Bây giờ nhặt mảnh sao rơi vá vào.
Đời tôi giầu ở chiêm bao
Bây giờ ngồi hút thuốc lào với trăng.

Trở về với mẹ ta thôi

Cả đời ra bể vào ngòi
Mẹ như cây lá giữa trời gió rung
Cả đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng
Đường đời còn rộng thênh thang
Mà tóc mẹ đã bạc sang trắng trời
Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười
Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương
Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ xẻ nhường cho nhau
Mẹ ra bới gió chân cầu
Tìm câu hát đã từ lâu dập vùi.

2.
Chẳng ai biết đến mẹ tôi
Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.

3.
Mẹ mua lông vịt chè chai
Trời trưa mưa nắng đôi vai lại gầy
Xóm quê còn lắm bùn lầy
Phố phường còn ít bóng cây che đường
Lời rào chim giữa gió sương
Con nghe cách mấy thôi đường còn đau.

4.
Giữa khi cát bụi đầy trời
Sao mẹ lại bỏ kiếp người lầm than
Con vừa vượt núi băng ngàn
Về nhà chỉ kịp đội tang ra đồng
Trời hôm ấy chửa hết giông
Đất hôm ấy chẳng còn bông lúa vàng
Đưa mẹ lần cuối qua làng
Ba hồn bảy vía con mang vào mồ
Mẹ nằm như lúc còn thơ
Mà con trước mẹ già nua thế này.

5.
Trở về với mẹ ta thôi
Giữa bao la một khoảng trời đắng cay
Mẹ không còn nưa để gầy
Gió không còn nữa để say tóc buồn
Gió lùa khung cửa bên song
Mắt mẹ khô lệ mỏi mòn nhớ thương
Chiều ra đầu ngõ để chờ
Tóc bay trắng xoá bên bờ tịch liêu
Người không còn dại để khôn
Nhớ thương rồi cũng vùi chôn đất mềm
Tôi còn nhớ hay đã quên
Áo nâu mẹ vẫn bạc bên nắng chờ
Nhuộm tôi hồng những câu thơ
Tháng năm tạc giữa vết nhơ của trời
Trở về với mẹ ta thôi
Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ.


Bây giờ


Bây giờ không thấy Thị Mầu
Nhưng con mắt ấy còn lâu mới già.
Mỗi lần cây cải nở hoa
Thì tôi lại nhớ người ta chưa về.
Mỗi lần cỏ dại trên đê
Chim ngói đi thả bùa mê khắp đồng.
Bây giờ em đi lấy chồng
Tôi giờ về lại bên sông tìm mình.

II
Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình.
Câu thơ nấp ở sân đình
Nhuộm trăng trăng sáng, nhuộm tình tình đau.
Nhuộm buồn những hạt mưa mau
Thành sao nở trắng vuờn cau trước nhà.
Nhuộm hương của các loài hoa
Thành mơn mởn tóc đuôi gà cho em.
Chẳng mong thì bão cũng đi
Chẳng chờ thì nắng đương thì vẫn sang.
Đất nâu tưởng đã cũ càng
Tiếng chim trong bụi tre làng cứ non.
Có đi trên quãng đường mòn
Mới tin rùa tháp vẫn còn linh thiêng.
Mỗi người có một cõi riêng
Cũng như tiếng trống tiếng chiêng hội mùa.
Câu ca mẹ hát như đùa
Mà làn nước mặn đồng chua đổi đời.

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2007

Thứ Hai, 5 tháng 11, 2007

Thơ viết tặng anh

Bài thơ này do một người bạn Thơ đề tặng tác giả

Lạnh lùng đêm mưa nỗi nhớ mong
Một kẻ xa xứ vẫn chưa chồng
Mộng mơ Hà Nội xa xăm ấy
Rằng anh có còn nhớ ta không?

Chỉ quen tên thôi, chưa biết mặt
Mà sao hằng đêm vẫn chờ trông
Ánh vàng nhấp nháy, tên người ấy
Nhắn gửi cho ta lấy đôi dòng

Rồi bỗng một hôm, chẳng đợi mong
Thế mà người ấy lại xao lòng
Nhắn ta người ấy rằng không ngủ
Vẫn mơ về ta với môi hồng...

Vô đề


Rượu nồng càng uống càng hay
Tửu đồ say rượu hay say men tình
Chẳng là tiên nữ thật xinh
Mà sao có kẻ rợn mình... cắn môi

Tự ngẫm

Vẫn đó trong tôi chí làm trai
Sống ở trên đời có chút tài
Rất cần chữ Tâm trong suy nghĩ
Tấm lòng chẳng chấp bụi trần ai

Chị tôi


Kính tặng người chị thân yêu của tôi


Chị ấy và tôi vốn cạnh làng
Hai bên chỉ cách một đò ngang
Ngày vui đùa nghịch trò thơ dại
Bắt bướm bẻ hoa dọc bãi vàng

Ướt lạnh chiều mưa tan học về
Vội vàng chị bước xuống bờ đê
Ngỡ ngàng ngựa xe lao thẳng tới
Lấy mất bàn chân, chị tái tê

Đường về quê chị còn xa xôi
Đá sỏi đồng chua lấm mặt người
Thương mẹ cha già đời khắc khổ
Nỗi niềm đau đáu chị không nguôi

Tôi thương cho chị tuổi đôi mươi
Cái tuổi xanh tươi đẹp nhất đời
Cau trổ bao mùa bông rụng trắng
Người ta chưa thấy đến ngỏ lời

Có lần tôi thấy chị với gương
Hai bóng nhìn nhau đượm nét buồn
Khóe mắt hàng mi nhòe đẫm lệ
Chị đang khao khát chuyện yêu đương

Chị ấy thường hay hát nhạc tình
Đêm dài hoang lạnh đêm tàn canh
Ngân nga vọng tiếng bài ca cũ
Khắc khoải hồn lay động bức mành

Thế rồi tôi chợt nhớ vu vơ
Đong đầy nỗi nhớ gửi vào thơ
Nào dám cho chị tôi biết được
Mối tình thầm kín kẻ ngu ngơ

Đất trời xui khiến một chiều đông
Tôi bạo đem thơ tới tỏ lòng
"Chị ơi ! mong chị đừng chối bỏ"
Nhận lấy thơ tôi, má chị hồng

Một chiều hạ vắng tôi đi xa
Sang tận trời Tây trắng tuyết pha
Chị đến tiễn tôi, lời chẳng nói
Nhìn tôi chỉ biết khóc sụt sùi

Ở mãi nơi này, chỉ một tôi
Mỏi mòn nhớ chị, nhớ không thôi
Nơi ấy chị chắc thành gia thất
Còn lại mình tôi vẫn lẻ loi

Đơn côi


Chỉ còn đường xa với riêng ta...


Ta, kẻ độc hành trên hoang mạc
Tìm mãi màu xanh chẳng thấy đâu
Đường xa cát bụi quàng vai áo
Tim sầu thêm tủi nỗi đơn côi

Ngẫm


Nhân đọc bài thơ "Phụng hiến" của thi nhân Bùi Giáng


Trần gian hai chữ vui sầu
Cho Người mọi thứ dải dầu ngày xanh
Một mai dẫu có lìa cành
Lá kia chẳng sợ mỏng manh liễu đào...

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2007

Sao em lỡ vội lấy chồng?


Sao em lỡ vội lấy chồng?
Lời ru thêm tủi luống công anh chờ
Anh về trăm mối tơ vò
Đem bao thương nhớ viết thơ chung tình
Tình chung của kẻ một mình
Người đi người ở nhạt hình ướt mi
Anh giờ ôm mối tình si
Nhớ ai ai nhớ cố tri biết cùng...

Sóng lòng

Em nhìn chi hỡi người em nhỏ?
Mái tóc bềnh bồng trong nắng trưa
Đôi môi hồng thoáng chút xa xưa
Suy ngẫm chăng? ước mơ bình dị

Nghĩ gì em, hỡi người em nhỏ?
Đôi mắt xa xăm ngắm phố dài
Nét hao gầy trĩu nặng đôi vai
Nơi đất khách nào ai thấu tỏ

Gió buốt lòng, bến sông càng lạnh
Biết nơi nao thấy bóng con đò
Cùng em tôi, người em gái nhỏ
Về quê mẹ với dáng gầy cha...

Sóng biển


Em như ngọn sóng dạt dào xô
Cơn gió là anh, gió ngây ngô
Không sóng sao làm nên biển cả
Gió dừng, sóng lặng, biển ngẩn ngơ

Xa khơi

Sáng tác: Nguyễn Tài Tuệ
Biểu diễn: Anh Thơ


Giáo sư Cao Xuân Hạo


(Bài viết này tôi đã đăng trên blog của Yahoo. Nay đăng lại để quí vị và các bạn cùng xem)

Hôm nay đọc báo mới biết Thầy Cao Xuân Hạo, nhà ngôn ngữ học hàng đầu Việt Nam đã ra đi cách đây vài hôm (hồi 19h40, ngày 16 tháng 10 năm 2007) sau hai tuần nằm bệnh từ một cơn đột qụy. Thầy mất đi là một thiệt thòi lớn cho ngành ngôn ngữ học Việt Nam, cho tiếng Việt vốn đang cần nhất sự trong sáng không lúc nào như lúc này. Tôi chỉ được biết Thầy qua một số bài viết bàn về ngôn ngữ tiếng Việt trên các báo. Tôi ấn tượng bởi cách giải thích rõ ràng, rành mạch, sự phân tích thấu đáo từ, ngữ, nghĩa tiếng Việt và cũng bởi cách viết không cầu kỳ, hoa mỹ của Thầy. Cách viết này không giống với cách viết làm dáng, thích lên mặt phán xét, tự cao tự đại của một số trí thứ dởm ở ta. Với tư cách là một kẻ hậu sinh, chưa hiểu biết nhiều về nhân tình thế thái, xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh của Thầy, một người Thầy lớn của ngành Ngôn ngữ học, một nhân kiệt của nước Nam ta và trên hết, một con Người thuần Việt.
Nhân đây xin giới thiệu với các bạn hai bài viết về Thầy Cao Xuân Hạo của những người bạn, người đồng nghiệp của Thầy. Đó là bài viết của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và Giáo sư Tương Lai mà tôi tìm được trên mạng. Cũng xin tạ lỗi với các tác giả vì chưa hỏi ý kiến trước khi đăng lại bài.

------------------------------------------------------------------------------------------------


"CẬU HẠO" - ANH CAO XUÂN HẠO


Làng Cao Quan (xã Diễn Thịnh) cách làng tôi không xa, chừng 6 km. Đấy là một cái làng nổi tiếng nhiều những người tài. Trong một bài viết về vùng đất khoa bảng này tôi đã nhớ lại: “Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải thưởng cao quý nhất về văn học nghệ thuật và khoa học, sau hai đợt đã có 4 người Diễn Châu được trao giải, đó là giáo sư Cao Xuân Huy, nhà văn hóa Cao Huy Đỉnh, giáo sư TS nông học Phạm Văn Tân (Diễn Thịnh) và giáo sư Lê Huy Thước (Diễn Quảng)”… Tức là một làng Cao Quan đã có đến 3 giải thưởng Hồ Chí Minh. Cao Xuân Hạo là con trai của cụ Cao Xuân Huy, cháu cụ Cao Xuân Dục vốn là quan Thượng thư trông coi việc khoa bảng triều Nguyễn. Cái làng ấy, cái làng họ Cao ấy, cả huyện tôi đều kính nể.
Là đồng hương với anh, một thời cùng ở Hà Nội, nhưng tôi không có dịp gặp anh. Mãi đến năm 1983 nhân ngày sinh nhật nhạc sĩ Văn Cao 60 tuổi, tôi và anh mới có dịp gặp nhau. Đêm hôm ấy, anh đã hát cho Văn Cao, Trần Dần, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thụy Kha và tôi nghe hai bài hát do anh sáng tác từ thời kháng chiến chống Pháp. Anh Văn Cao nói: Nếu ngày ấy Hạo đi vào âm nhạc, chắc sẽ thành một tay anh chị trong làng nhạc.
Giọng anh trong, vang, và đầy sức truyền cảm. Làng nhạc gọi là giọng teno bay. Và dù chọn nghề ngôn ngữ, tôi nghĩ anh đã chọn đúng. Là người Nghệ, nhưng anh phát âm rất chuẩn. Anh học tiếng Anh nhưng cũng thạo tiếng Pháp. Và có điều lạ là anh chỉ tự hoc tiếng Nga có 6 tháng, đã tham gia dịch bộ tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình ra tiếng Việt được nhiều chuyên gia tiếng Nga khâm phục.
Sau lần gặp anh ở nhà Văn Cao, tôi còn nhiều dịp gặp anh nữa. Nhưng có vài lần gặp không thể quên.
Năm 1988, tôi vào Sài Gòn, đi uống bia 80 Trần Quốc Thảo với Thu Bồn, bỗng thấy anh đội mũ phớt ngồi một mình một bàn với một cốc bia hơi, như đang đợi ai đó. Tôi và Thu Bồn hỏi anh, anh bảo không đợi ai cả. Thế là chúng tôi mời anh cùng uống. Nhiều người cầm cốc bia đến chạm cốc với anh, và họ thường gọi anh là “Cậu Hạo”. Từ cậu nghe có vẻ như công tử, cái từ gọi vừa thân mật vừa sang trọng. Sau cuộc nhậu, anh mời tôi trưa mai đến nhà anh ở đường Huỳnh Văn Bánh ăn cơm với vợ chồng anh. Trưa hôm sau Tôi đến nhà anh. Vợ anh – chị Kim Thanh từng là diễn viên điện ảnh – đã chuẩn bị một bữa tiệc khá thịnh soạn. Anh hỏi tôi thích rượu hay bia. Tôi bảo rượu. Thế là anh mang một chai whisky ông già chống gậy ra. Chị Kim Thanh uống nước ngọt, còn anh em nhà tôi xơi gần cạn chai whisky. Khi biết vợ tôi cũng tên Kim Thanh, anh Hạo nói vui: Anh em mình có mấy cái trùng nhau đó, vợ đều là Kim Thanh, còn bọn mình đều cùng vần ạo. Tôi đùa: Ừ nhỉ, toàn vần xạo, và chắc còn trùng một điểm gì nữa chớ anh!... Còn nhớ hôm đó có món mắm tép để chấm thịt heo ba chỉ luộc rất hợp khẩu vị, tôi cứ tấm tắc khen. Anh chú ‎ý cái sở thích đó của tôi. Trưa hôm sau, trước khi tôi rời Sài Gòn, thấy anh đến khách sạn chia tay và mang theo cho tôi hai chai mắm tép.
Năm 1995, anh ra Huế giảng dạy một cua ngôn ngữ ở Đại học Sư Phạm, và gọi điện cho tôi lúc đã khuya, (chắc ai đó đã cho anh số điện thoại của tôi). Tôi hẹn anh sáng mai tôi đến sớm đưa anh đi ăn sáng. Khi tôi đến, anh đã áo quần tươm tất. Vẫn cái mũ phớt ngày nào. Nhưng trông anh già hẳn so với tám năm trước. Tôi chở anh đến quán bánh bèo cạnh Cung An Định, ây là cái quán có đủ các loại bánh Huế: bánh bèo, bánh bột lọc, bánh ít, bánh su-sê (phu thê), v.v… Tôi gọi một mẹt đủ các loại bánh. Anh bảo hồi nhỏ học ở Huế, thường được ăn quà là các loại bánh này, nhưng chưa bao giờ được ăn một lúc đủ các loại bánh như thế này. Vừa uống bia Ken vừa ăn bánh, anh nhấm nháp những kỷ niệm ấu thơ với giọng nói chân thành, xúc động. Rồi anh bảo: Biết bao giờ lại được ăn đủ các loại bánh Huế cùng một lúc như thế này…
Khi trò chuyện về ngôn ngữ và dịch thuật văn học, Cao Xuân Hạo vô cùng bình thản. Anh có những nhận định của kẻ đắc đạo mới có. Anh muốn tìm cho ra cái cách riêng của ngôn ngữ Việt. Và vì thế anh thường so sánh rất nhiều với những ví dụ của ngôn ngữ ngoại quốc. Tuy vậy, anh vẫn cố gắng để giữ lại cái phong cách Tây khi dịch các tác phẩm văn học. Anh nói, người Tây là người Tây, đừng biến người Tây thành người ta. Và ngược lại, anh khẳng định: Mình không bao giờ muốn biến người ta thành người Tây, tiếng ta thành tiếng Tây.
Vài năm nay, anh viết nhiều bài nghiên cứu, trao đổi, tranh luận rất sắc sảo, quyết liệt nhưng luôn lịch lãm. Bởi anh có một nền tảng văn hóa dày dặn, từng trải, và sang trọng. Anh là một người tài, một người ga lăng hay một người thầy. Nhưng tôi cứ bị ấn tượng mãi cái đại từ Cậu mà người ta vẫn thường gọi anh.
Hôm nay được tin Cậu Hạo mất, tôi viết mấy dòng tưởng nhớ anh, người anh, người đồng hương mà tôi luôn kính phục và nể trọng.

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Tiểu sử:
Giáo sư Cao Xuân Hạo sinh năm 1930 tại Huế, thân phụ là Cao Xuân Huy. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng với giai thoại tự học nghe, nói và viết thành thạo tiếng Pháp chỉ từ việc chơi với một người bạn Pháp. Ông từng làm giảng viên ngôn ngữ học, khi đó ông đảm nhận phần lớn công việc dịch sách và hiệu đính các sách dịch tại bộ môn ngôn ngữ học, tại Đại học tổng hợp Hà Nội, hiện nay ông sống ở Sài Gòn và thành viên của Hội nhà văn Việt Nam. Tuy nổi tiếng như một nhà ngôn ngữ học, dịch giả, ông còn nổi tiếng như một nhà văn. Năm 1985 giáo sư Cao Xuân Hạo đã được trao tặng giải thưởng về dịch thuật 1985 của Hội nhà văn Việt Nam.
Giáo sư Cao Xuân Hạo từ trần lúc 19h40' ngày 16-10-2007 tại bệnh viện Thống Nhất - TPHCM - sau hai tuần nằm bệnh từ một cơn đột quỵ.

Những đóng góp ngôn ngữ học và dịch thuật:
Tác phẩm dịch đã xuất bản:
Người con gái viên đại uý (truyện 1959);
Chiến tranh và hòa bình (tiểu thuyết 1962);
Chuyện núi đồi và thảo nguyên (truyện ngắn 1963);
Trên những nẻo đường chiến tranh (tiểu thuyết 1964);
Truyện ngắn Goócki (1966);
Con đường đau khổ (tiểu thuyết 1973);
Tội ác và trừng phạt (tiểu thuyết 1983);
Đèn không hắt bóng (1986);
Papillon (1988);
Khải hoàn môn (1988).
Nô Tỳ Isaura (tiểu thuyết 19??)
Sách đã xuất bản:
(1998) Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa, Hà Nội: NXB Giáo dục.
(2001) Tiếng Việt Văn Việt Người Việt, NXB Trẻ.
(Quý II năm 2006) Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học xã hội và Công ty văn hóa Phương Nam.
Bài viết quan trọng đã đăng báo:

“Hai cách miêu tả hệ thống thanh điệu của tiếng Việt”, Cao Xuân Hạo
“Chiết đoạn và siêu đoạn trong ngôn ngữ học phương Tây và trong tiếng Việt” và “Nguyên lý ‘tuyến tính của năng biểu’ trong âm vị học”, Phonologie et linéarité: réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine, 1985 - Cao Xuân Hạo, viết bằng tiếng Pháp, do Hội Ngôn ngữ học và Nhân loại học Pháp quốc (SELAF) xuất bản
“Vấn đề âm vị trong tiếng Việt”, Cao Xuân Hạo
“Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt” (1978), Cao Xuân Hạo
“Về cương vị ngôn ngữ học của ‘tiếng’”, Cao Xuân Hạo
“Nhận xét về các nguyên âm của một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam
“Một số biểu hiện của cách nhìn Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt”
“Về cách phân tích âm vị học một số vận mẫu có nguyên âm ngắn trong tiếng Việt”
“Thêm mấy giải pháp âm vị học cho các vận mẫu có nguyên âm ngắn của tiếng Việt”
“Sợ hơn bão táp”, Báo Văn Nghệ

Những nhận định về ông

"Cao Xuân Hạo thuộc vào số rất ít nhà ngữ học Việt Nam vượt lên khỏi cái địa vị thuần túy cung cấp tư liệu minh họa cho các lý thuyết ngữ học của phương Tây, để đĩnh đạc tranh luận với giới ngữ học quốc tế." (Hoàng Dũng viết về Cao Xuân Hạo)
“Hình như trong cuộc đời ông cũng chịu không ít bầm dập. Nhưng tôi cho là may mà đời có ông. Ông chân thực vô tư mà minh triết như chú bé trong ngụ ngôn Andersen đã nói huỵch toẹt: hoàng đế cởi truồng. Không hiểu sao tôi có liên tưởng ngộ nghĩnh: một chiều gió bấc, một con đường mòn xa tít hun hút tới chân trời. Trên đó chàng kỵ sĩ gầy, mái đầu muối tiêu, nách cắp cây thương, cưỡi trên con ngẽo cà khổ. Đó là ông, Cao Xuân Hạo, chàng kỹ sĩ độc hành. Trong chiều tà, ngọn bút của ông được phản quang phóng to thành cây thương. Một người một ngựa, ông trơ trọi đi trong chiều vắng. Trước mắt, những hồn ma bóng quế chập chờn. Nhưng ông vui vì tin rằng một ngày mai những con chữ Việt sẽ tưng bừng trong cuộc hoan ca chào đón ông - người giải phóng. ” (Hà Văn Thuỳ viết về Cao Xuân Hạo)
------------------------------------------------------------------------------------------------

CAO XUÂN HẠO, MỘT TRÍ THỨC, MỘT THÂN PHẬN


Thế là nhà trí thức tài hoa ấy đã ra đi. Và lần này, nhà ngữ học bậc thầy ấy đã ra đi “một cách tuyệt đối”, không còn cách gì cứu vãn được nữa. “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở, tôi tuy thương lấy nhớ làm thương, tuổi già hạt lệ như sương…” Phải cố nghĩ đến câu thơ người xưa khóc bạn để mà gắng vơi đi nỗi đau đã được báo trước. Đành rằng, rồi cũng phải lấy nhớ làm thương, vì làm sao cưỡng lại được quy luật nghiệt ngã mà ai rồi chẳng phải đón nhận. Một trí thức như Cao Xuân Hạo thì cũng phải mỉm cười, nụ cười diễu cợt và thách thức, mà chấp nhận sự nghiệt ngã đó. Đó là diễu cợt và thách thức thân phận của một người trí thức. Trí thức theo cách nói của J.-P. Sartre, là người ý thức được sự xung đột xảy ra trong lòng họ và trong lòng xã hội giữa việc đi tìm sự thật qua thực tiễn hành động và hệ ý thức… là người xớ rớ vào những chuyện không liên quan đến họ. Chuyện không phải của họ mà họ thấy là của họ. Cái thấy đó làm họ trở thành trí thức. Mà cũng vì thế, theo K. Marx, người trí thức là người “phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không thụt lùi dù trước kết luận của chính mình…”.* Là tôi tưởng tượng ra nụ cười thường ngày của Hạo vào phút giây nghiệt ngã anh nắm chặt tay tôi, khi chính tôi đang run lên nghẹn ngào trước sự thật sẽ phải đón nhận đó. Anh đã ra đi thật rồi, khoảng trống vắng nhà ngữ học lớn ấy để lại không biết rồi đây sẽ ai sẽ khỏa lấp, măc dù anh tự cho mình chỉ là “người trần tục tầm thường”. Tự nhận mình là người trần tục, để không thể nào chấp nhận những ai đó “lấy làm thỏa mãn với dăm bảy thí dụ chợt nghĩ ra trong vài giây, vào những khoảnh khắc xuất thần của thiên tài. Nhà trí thức tài năng ấy đã quyết dành “hàng buổi, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm nếu cần, lần giở từng trang từ điển hòng kiểm tra lại những phát hiện sáng chói mà các bậc thiên tài đã thực hiện, và hễ có cơ may thì tự mình tìm ra những quy tắc khác ít mang dấu ấn của thiên tài, nhưng lại vượt qua được sự thử thách của một quá trình kiểm nghiệm kỳ khu, để lần mò tới những sự thật có thật trong tiếng Việt chứ không phải trong tiếng Pháp hay tiếng Nga”.** Và thực sự là anh đã tạo ra “cơ may” ấy bằng cách góp phần quan trọng vào việc làm nên một diện mạo của Việt ngữ học từ khi có nền đại học Việt Nam. Nhưng xin hãy để chuyện này cho các nhà ngữ học, đồng nghiệp của Anh, bình luận thẩm định về Anh, là người ngoại đạo của chuyên ngành này, tôi chỉ xin khóc bạn về đôi điều cảm nhận về bản lĩnh của người trí thức và cũng do đó mà phải gánh chịu một thân phận nghiệt ngã của người trí thức, người tôi yêu mến và kính trọng. Con người ấy, như anh đã tự kể về mình : “ Cách đây gần bốn mươi năm, một người bạn học cũ, khi thấy tôi ngồi mỗi ngày mười tiếng trong Thư viện Khoa học ở phố Lý Thường Kiệt để đọc cho bằng hết các sách ngôn ngữ học, tri thức luận và logích học trong đó, có khuyên tôi thôi làm cái chuyện dã tràng xe cát ấy đi, vì nếu muốn giỏi bằng một anh phó tiến sĩ của Nga, một người Việt Nam tự học phải thông minh gấp ba và đọc gấp mười mới được. Lòng tràn đầy tự ái, tôi đáp : 'Sao anh biết tôi không thông minh gấp ba và sẽ đọc nhiều gấp mười nó'”.** Cao Xuân Hạo kể để tự phê phán mình, nhưng qua đó, có thể hiểu ra được ngọn nguồn tài năng của thân phận nghiệt ngã mà người trí thức tài hoa ấy đã phải gánh chịu. Tự giam mình mỗi ngày mười tiếng như vậy trong suốt mười lăm năm anh bị một án kỷ luật để không được đứng lớp giảng dạy, chỉ được “làm tư liệu” để “phục vụ nghiên cứu”. Và rồi cũng vì cái án kỷ luật đó, trong thời gian dài đó, anh “chỉ được dịch”, chứ không được viết ! Để “phục vụ nghiên cứu”, Cao Xuân Hạo tự trở thành một nhà ngữ học tài ba mà tác phẩm của anh đã làm “một cuộc cách mạng Copernic thực sự của ngữ học hiện đại” *** như nhận định của Jean-Pierre Chambon. Và vì “chỉ được dịch”, anh đã để lại cho đời hơn hai vạn trang sách văn học trong đó có các kiệt tác như Chiến tranh và hoà bình, Tội ác và hình phạt, Con đường đau khổ, Khải hoàn môn, Đèn không hắt bóng, Papillon, người tù khổ sai…. Điều đáng nói hơn nữa, khi dịch như vậy, từ cái vốn hiểu biết sâu sắc thành tựu của ngữ học hiện đại qua quá trình làm tư liệu “phục vụ nghiên cứu”, trên cở sở bám rất chắc vào mảnh đất tiếng Việt, khẳng định dứt khoát “Linh hồn tiếng Việt không hề mất. Cái ý vị vô song của ca dao, tục ngữ, của những câu Kiều, những câu ngâm của người chinh phụ vẫn còn sống mãnh liệt trong tiếng nói hàng ngày của dân ta…”**, anh đã có dịp so sánh, đối chiếu cách diễn đạt tiếng Việt và các thứ tiếng Châu Âu, rút ra được những điểm dị đồng giữa hai loại hình ngôn ngữ, Cao Xuân Hạo đã dám sửa cái chuẩn tắc vốn được giới ngữ học thừa nhận theo quan điểm “dĩ Âu vi trung” (europeocentrism), mở ra một hướng mới đầy thách thức. Thì ra tạo hóa đã không quá bất công, luật “bù trừ” phát huy tác dụng, cái án kỷ luật buộc anh phải treo bút đã giúp anh “vượt qua được sự thử thách của một quá trình kiểm nghiệm kỳ khu, để lần mò tới những sự thật có thật trong tiếng Việt” ** để có những cống hiến lớn trong lĩnh vực Việt ngữ học, cũng đồng thời để lại dấu ấn nổi bật trong lĩnh vực dịch thuật. Mà nào có gì to tát, khó hiểu đâu, cái án kỷ luật buộc anh phải treo bút ấy là do khi đi dạy, học trò cứ hỏi riết mãi về một “vụ án văn học, nghệ thuật” đang gây bức xúc dư luận, không thể im lặng mãi không trả lời, anh nói với học trò của mình : “trong tranh luận học thuật và văn chương, khi ai buộc phải dùng đến uy quyền và trấn áp thay cho tranh luận công khai thì chính ngừoi đó sợ chân lý”. Đó là cái tội “phát ngôn vô nguyên tắc” của mình. Vẫn nụ cười hiền lành song không dấu cái vẻ khinh bạc, anh kể lại chuyện đó, khiến tôi nhớ lại đoạn văn M. Gorki nói về Chekhov : “ Trước cái đám đông xám ngắt những kẻ bất túc, đã hiện ra một người… bằng giọng nói trung thực mà sang sảng, buồn buồn mà mỉm cười, với một nỗi sầu hoài tuyệt vọng trong tâm khảm và trên sắc mặt, giọng đầy quở trách dịu dàng mà thâm thúy, người ấy bảo cả bọn họ : Các vị sống bậy quá đi thôi ! ”. Cao Xuân Hạo đã cố gắng thực hiện cái lương năng trí thức của mình như K. Marx đã từng chỉ ra, người trí thức là người “ phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không thụt lùi dù trước kết luận của chính mình…”. Nhưng rồi số phận đã chơi khăm anh, là nhà ngôn ngữ học tài ba, anh đã không còn diễn đạt được ý nghĩ anh có trong đầu sau mấy lần bị tai biến, tình trạng ấy kéo dài mãi cho đến khi anh không còn nói được nữa, chỉ biểu đạt ý nghĩ của mình bằng ánh mắt. Thì cũng giống như Chekhov đấy thôi, suốt đời “dùng ngòì bút tinh nhuệ của mình để phát giác ra những cái mốc meo của sự phàm tục” để khi ông mất, thi hài của ông được chuyên chở về St. Petersburg trên cái vagông đen chứa sò huyết của chuyến tàu chợ! Tôi nhớ mãi ngón tay trỏ của Hạo cứ gõ gõ trên ngực mình ngày anh mới nhập viện mà cô cháu đứng lau mồ hôi cho anh giải thích “đấy là ông cháu gõ vi tính đấy ạ. Ông cháu chỉ đánh vi tính được theo kiểu mổ cò”! Nhà ngữ học tài hoa ấy vẫn đang tư duy, chỉ không nói được! Hạo ơi, anh đã tuyệt đối nằm xuống, nhưng sự nghiệp của anh thì đang đứng dậy vì càng ngày người ta sẽ càng nhận ra khoảng trống về sự thiếu vắng của một tài năng bẩm sinh từ cái “gien”di truyền và sự truyền dạy của cha anh, người thầy đáng kính của riêng anh và của một lớp trí thức có nhân cách, thầy Cao Xuân Huy. Một bậc minh triết, từng được mệnh danh là một nhà “Đạo học” ngay từ buổi mới trong ngoài ba mươi tuổi. Được sự chăm sóc và truyền dạy của cha, Cao Xuân Hạo theo được cái chí của cha vói cảm nhận thường trực về “cái gánh nặng tinh thần đang đè lên một người con không thực hiện được hoài bão của cha, một người học trò dốt đã phụ lòng mong đợi của thầy”**. Sự tự vấn ấy khiến anh để lại lời nhắn gửi “hy vọng các nhà khoa học nhân văn thuộc các ngành khác nhau, nhất là các đại diện của thế hệ trẻ, sẽ tiếp tục nghiên cứu theo hướng này” ** tức là hướng từ sự khác nhau về cấu trúc ngôn ngữ (tuyến tính/phi tuyến tính) để suy nghĩ thêm về sự khác nhau về phương thức tư tưởng giữa phương Đông và phương Tây mà cụ Cao Xuân Huy đã dẫn dắt anh. Tôi muốn mượn lời của chính anh, để nói về sự nghịệp của anh, khi với tư cách là một nhà ngữ học tài ba, một nhà dịch thuật uyên bác để kiến nghị về cách anh hiểu một ý thơ của Nazim Hikmet qua sự diễn đạt tinh tế của tiếng Việt mà anh suốt đời đau đáu : Nếu tôi không cháy lên Nếu anh không cháy lên Thì làm sao Bóng tối Có thể trở thành Ánh sáng ? Ở thế giới bên kia, anh hãy tự bằng lòng vì thân phận trí thức của anh cũng đã giúp “ mỗi người trong chúng ta phải có đủ nhiệt huyết để dám tự thiêu huỷ trong đấu tranh thì Chân mới thắng được Ngụy, Thiện mới thắng được Ác ” ** như anh đã từng lý giải về cách dịch câu thơ của Hikmet.


TƯƠNG LAI


* Cao Huy Thuần, Thế giới quanh ta, NXB Đà Nẵng, tr. 61.

** Những trích dẫn đều lấy từ Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt của Cao Xuân Hạo

*** “ Có lẽ chính cái hướng do Cao Xuân Hạo chỉ ra – chứ không phải hướng của ngữ pháp tạo sinh cải biến – mới thật là cái hướng mà ta phải theo để tìm đến một cuốc cách mạng Copernic thực sự của ngữ học hiện đại ” (Revue des langues romanes, tome LXXXIII, n° 1978, fasc. 1, pp.205-210), dẫn lại theo Hoàng Dũng trong “Cao Xuân Hạo. Nhà ngữ học”

Tóc mây


Tóc ai lạc giữa rừng hoa

Ngỡ như suối mát hay là làn mây

Môi hồng thắm sắc cỏ cây

Thơ ngây nét ngọc đong đầy thiên duyên

Khúc hát sông quê

Nhớ em

Cho những ai đã từng bị Tình yêu ruồng bỏ
Nhớ em biết mấy cho vừa
Người đi có thấu tiếng mưa ngập lòng
Tiễn nàng một buổi bên sông
Cớ sao chẳng nhận áo hồng của anh?
Mong em gặp được duyên lành
Tình câm đã chết, thôi đành từ ly
Thuyền hoa xác pháo vu quy
Tim buồn nghe sáo Trương Chi...càng buồn
Rượu sầu quyện với lệ tuôn
Nhớ thương anh lại để hồn...tương tư...

Biển khát


Bờ cát mơn man liếm bàn chân
Lớp lớp sóng xô bọt trắng ngần
Trời đêm dạo cảnh thương về Bắc
Nhớ em cồn cào cháy ruột gan

Khóc bạn

Cái tình cái nghĩa tri giao
Tìm trong thiên hạ dễ nào mấy ai

Thời gian thấm thoắt ba năm
Đêm khuya nhớ bạn khóc thầm Người ơi

Mưa buồn day dứt chơi vơi
Nghe mưa nhỏ giọt, lệ rơi ngàn hàng
Nhớ ngày hai đứa nghênh ngang
Cưỡi trâu thổi sáo lang thang khắp đồng
Tìm tôm bắt tép bên sông
Đem về lều nhỏ lửa hồng thân thương
Một đêm đông giá buốt sương
Bạn tôi gặp nạn giữa đường lạnh xa
Thôi đành khóc hận trong ta
Sao không cùng bạn vượt qua hạn này?
Bây giờ còn mỗi một tay
Tay kia đã mất chẳng thay được rồi

Chiều nay lẻ bóng mình tôi
Về đây gặp bạn bồi hồi xót xa
Cảnh xưa sắc tím phôi pha
Xanh rì cỏ mọc cành hoa úa màu
Cỏ hoa có biết nỗi đau
Của người mất bạn cơn sầu nào vơi
Trời ơi! có thấu tim tôi
Sao ông lại nỡ làm rơi trúc, đào?

Dù cho mưa dội gió gào
Tình tôi mãi trọn tâm giao kim bằng

Nàng Chiêu Quân


Nhân nghe vở cải lương: "Chiêu Quân cống Hồ"


Bài thứ nhất
Cảm thương cho phận má hồng
Chim sa cá lặn đem thân cống hầu
Liễu dương ủ rũ bên cầu
Mỹ nhân khuất bóng mưa sầu Nhạn Môn

Bài thứ hai
Hỏi người từng nghe chuyện Chiêu Quân?
Cống Hồ tiếc thương phận mỹ nhân
Ai dạo tiếng đàn nghe sầu não
Trường ly uất hận đến ngàn năm

Thơ rượu ngày xuân

Trăm năm thơ túi rượu vò
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai?
-- Tản Đà --

Thế nhân thường nghĩ rượu là hư
Nhưng rượu với thơ thấy gật gù
Không rượu không thơ đời cũng nhạt
Có rượu thêm thơ mới đượm tình

Uống rượu càng hay khi có bạn
Ngâm thơ đàm luận chuyện nhân gian
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng (*)

Ngày xuân uống rượu, mừng năm mới
Ngẫm trông thế sự thoáng chơi vơi
Dầu non cao mòn sông sâu cạn
Một chén rượu suông chẳng ngán đời

-----------------------
(*) - Thơ Hàn Mặc Tử

Một mình


Người có đôi, ta rất một mình
Phong trần đâu dám mắt ai xanh
Đêm nay giăng rụng về bên ấy
Góc trọ còn nguyên gió thất tình
---- Nguyễn Bính ----



Đâu phải còn nguyên gió thất tình
Chỉ vì duyên phận vẫn làm thinh
Phong trần mong gặp người tri kỷ
Hồng nhan gửi trọn nghĩa ba sinh...

Bài thơ không tên thứ ba

Nhân nghe vở cải lương "Áo em chưa mặc một lần"

Bạc đầu em chưa mặc áo hồng
Tình anh đau đớn với hư không
Giọt đàn vụn vỡ theo hoa thắm
Người đã sang sông chẳng bận lòng

Mộng ước không thành, tình mãi xa
Dáng em còn lại bóng nhạt nhòa
Khăn hồng trót trao đành tiễn biệt
Ngậm ngùi nuốt lệ xót thân ta...

Bài thơ không tên thứ nhất


Xa em lòng bỗng thấy buồn

Mặt trời lặn bóng, cánh buồm đi đâu

Mưa suông, gió buốt, núi sâu

Đời anh nghiêng ngả, nỗi sầu...nhớ em...

Hoa nắng

Hoa gì màu tím chung tình

Đậm đà e ấp gợi hình mỹ nhân

Trưa hè nắng dệt đầy sân

Ngất ngây hương sắc níu chân bướm vàng

Tự sự


Chẳng biết tại sao viết lời thơ?
Phải chăng vì dạ thoáng ngẩn ngơ
Hay bụi hồng trần, đời mỏi mệt
Bao điều tâm sự gửi vào mơ

Chẳng biết tại sao viết lời thơ?
Hữu tình cảnh sắc nét sương mờ
Nước biếc non xanh, sao đẹp thế
Nén lòng không thể, nên viết thơ

Chẳng biết tại sao viết lời thơ?
Gửi em, tìm mãi chốn hư vô
Nghe tim thổn thức vì em đó
Lòng ta trót nặng với nàng Thơ...

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2007

Vắng em


Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ

Em lấy chồng rồi hết ước mơ

Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng

Ngồi lên để thả cái hồn thơ

-- Hàn Mặc Tử --

I

Đêm dài trống lặng như tờ

Vắng em anh nhớ, anh chờ... anh mong

Nhớ em ra ngóng vào trông

Ngọn đèn vẫn tỏ, nỗi lòng không nguôi

Ước sao được thấy nụ cười

Được nhìn đôi mắt của người anh yêu


II

Nhớ em, nhớ mỗi buổi chiều

Đôi ta sánh bước xiêu xiêu đường về

Nhớ em, nhớ dáng yêu kiều

Của người con gái ráng chiều đan mây

Má nàng chợt đỏ hây hây

Nón nghiêng mắt ngọc đắm say hồn người

Em vui em cất tiếng cười

Vần thơ nát vụn, tim người vỡ tan


Nhớ em, nhớ lúc trăng lên

Hẹn hò đôi lứa nên duyên chúng mình

Cây đa bến nước sân đình

Đều in kỷ niệm của tình hai ta


III

Giờ đây anh đã cách xa

Người anh yêu dấu phôi pha cõi lòng

Em ra phố chợ người đông

Để anh ở lại cố mong ngày về

Em ơi ! em nuốt lời thề

Anh lầm anh tưởng gái quê thật thà (*)


Mưa rơi…rơi mãi sau nhà

Tim anh đau nhói bởi xa vắng nàng

“Chờ sao chẳng thấy trăng vàng

Cho mình ngắm thỏa bóng nàng tắm trăng”…


9/2006

(*) - Thơ Hàn Mặc Tử